TỀ BẠCH THẠCH, LỘT XÁC Ở TUỔI SÁU MƯƠI NHỜ TÌNH BẠN TRI KỈ

TỀ BẠCH THẠCH, LỘT XÁC Ở TUỔI SÁU MƯƠI NHỜ TÌNH BẠN TRI KỈ

Mặc dù ở Việt nam nghệ thuật Trung quốc họa vẫn chưa được biết đến rộng rãi nhưng hầu như chẳng mấy ai là không biết đến cái tên Tề Bạch Thạch. Bởi danh tiếng của ông đã không chỉ bị bó hẹp trong phạm vi của thế giới người Hoa mà đã lan rộng ra toàn thế giới.

Giờ đây mỗi khi nhắc về Trung quốc họa, người ta sẽ nghĩ ngay đến Tề Bạch Thạch như một đại diện kiệt xuất nhất của nền mỹ thuật hơn hai nghìn năm tuổi này. Và cũng ít có ai biết rằng, người họa sĩ vĩ đại mà di sản để lại nhiều hơn ba vạn bức tranh kia lại có một sự chuyển biến bản thân hết sức nhọc nhằn và muộn màng. Cuộc đời nghệ thuật của ông là minh chứng cho tinh thần cầu thị cao cả, sự cần cù khổ luyện không ngừng để đi đến thành công.

Người yêu nghệ thuật ngày hôm nay biết về Tề Bạch Thạch thường thông qua những bức tranh tôm cua sống động như đang bơi lội nhảy nhót, những chú gà con tròn xoe như những nắm bông, những bó cải trắng, nấm hương, cà rốt, những quả bầu nậm đung đưa trong gió....và cả một thế giới cỏ cây hoa lá chim thú thảo trùng sinh động hồn nhiên như trẻ thơ. Nhưng ít ai biết rằng thực chất cái thế giới hồn nhiên như trẻ thơ đó lại bắt đầu xuất hiện dưới đôi bàn tay của một họa sĩ khi mà tuổi đời đã xế chiều. “Suy niên biến pháp”, nghĩa là “ tuổi già đổi phép” đã trở thành một câu chuyện nổi tiếng trong giới họa Trung quốc. Và nguyên nhân của sự lột xác ngoạn mục đó lại xuất phát từ một tình bạn tri kỉ bất kể tuổi tác của hai danh họa đầu thế kỉ 20 , đó là Tề Bạch Thạch và Trần Sư Tăng.

Nguồn cơn của mối nhân duyên này bắt đầu vào năm 1917, chiến tranh quân phiệt diễn ra liên miên, thổ phỉ hoành hành khắp vùng Hồ Nam, Tề Bạch Thạch giờ đã 55 tuổi buộc phải lánh nạn ở Bắc kinh, trú ngụ qua ngày ở chùa Pháp nguyên, lấy việc vẽ tranh bán ấn làm kế sinh nhai. Vào giai đoạn này, Tề Bạch Thạch đang chịu ảnh hưởng phong cách đạm dật lánh đời của Bát Đại Sơn Nhân (1). Mặc dù ở quê hương mình ông đã gây dựng được không ít tiếng tăm, nhưng đến kinh đô mọi chuyện lại khác, tranh của ông không được giới thưởng ngoạn ở Bắc kinh đánh giá cao. Ông còn bị gọi nhạo báng là Hương Ba Lão (lão già nhà quê). Mặc dù chỉ bán tranh bằng nửa giá những họa gia làng nhàng khác nhưng tranh ông vẫn không được ai đoái hoài, cuộc sống hết sức cùng khốn.

Nhưng cũng chính vào giai đoạn bế tắc đó, một nhân vật đã xuất hiện tạo nên một bước chuyển biến ngoạn mục trong sự nghiệp nghệ thuật của Tề Bạch Thạch, mà sau này người đời đã ví ông như Bá Nhạc (2), người có con mắt tinh tường nhìn ra cái nội lực tiềm ẩn của Thiên lý mã vậy. Đó là danh họa Trần Sư Tăng (陈师曾). Vậy Trần Sư Tăng là ai ?

Giờ đây khi nhắc đến tên ông, chỉ có những người yêu thích thư họa mới may ra biết đến, còn trong tri thức đại chúng, ông gần như đã bị quên lãng. Ông tên thật là Trần Hành Khác (陈衡恪), người Giang Tây Nghĩa Ninh ( hiện là huyện Tu thủy tỉnh Giang tây), hiệu là Hủ Đạo nhân(朽道人, Hòe đường(槐堂), một trong những nhà cải cách giáo dục nghệ thuật danh tiếng, ngọn cờ lớn của họa đàn Bắc kinh đầu thế kỷ 20. Họ Trần xuất thân trong gia đình thư hương môn đệ, từ nhỏ đã tinh thông thi văn, thư pháp, lại giỏi cả hội họa, triện khắc, sau lại được đi du học Nhật bản, về nước giữ cương vị giảng sư ở nhiều trường đại học ở Bắc kinh, thanh danh rất cao. Tranh sơn thủy của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc của Thẩm Châu (3), Thạch Đào (4), đề cao việc học tập tự nhiên, phản đối tư duy câu nệ cổ pháp, sao chép cổ nhân đang thịnh hành đương thời. Trong thể loại hoa điểu ông lại chịu ảnh hưởng lớn từ Ngô Xương Thạc (5), Từ Vị (6), Trần Thuần(7). Bút pháp đại tả ý (8) hùng sảng khoáng đạt, tự do bôn phóng, ý thú lâm li hào mại, phiêu dật tân kỳ.

Vào một ngày dường như là định mệnh, Trần Sư Tăng bắt gặp ấn chương của Tề Bạch Thạch đang gửi bán ở hiệu giấy Lưu Ly xưởng. Cảm thấy vô cùng thích thú, ông liền tìm đến nhà họ Tề đang cư ngụ tại chùa Pháp Nguyên. Hai người gặp nhau, mặc dù Tề Bạch Thạch hơn Trần Sư Tăng những mười hai tuổi, nhưng như thể số trời đã định sẵn cho đôi bạn tri kỉ, cả hai đều không câu nệ tuổi tác, lời lời nói ra đều tâm đầu ý hợp. Kể từ đó, Tề Bạch Thạch ngày ngày tìm đến Hòe đường nơi nhà Trần Sư Tăng để đàm họa luận thế, kèm theo đó ông có cơ hội kết giao với rất nhiều danh sĩ ở kinh đô đương thời, cơ hội học tập và quảng bá nghệ thuật của bản thân cũng rộng mở từ đó.

Phong cách của Tề Bạch Thạch có được sự chuyển biến cực kỳ to lớn cũng từ sự dẫn lối chỉ đường của Trần Sư Tăng. Coi người kém mình mười hai tuổi vừa là thầy, vừa là bằng hữu tri kỉ. Ngay cả khi bị họ Trần thẳng thừng phê phán, Tề Bạch Thạch vẫn cảm thấy tâm đắc vì rất hợp ý mình. Vậy điều gì đã khiến một họa sĩ lão thành ở cái tuổi gần lục tuần lại có thể nghe theo sự dẫn dắt của một họa sĩ thuộc thế hệ đàn em kém mình những chục tuổi. Đó một phần là do tinh thần cầu thị hết sức cao thượng của họ Tề.

Vốn xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo ở tỉnh Hồ Nam, Tề Bạch Thạch không có một sự khởi đầu tốt đẹp gì lắm cho sự nghiệp nghệ thuật của mình. Việc học thư họa đòi hỏi người học phải đuơc tiếp xúc trực tiếp với các danh tác cổ kim của các danh gia mà tác phẩm của họ được nâng niu như của báu từ đời này qua đời khác. Một người xuất thân hèn kém như họ Tề làm sao có cơ hội tiếp xúc với những món đồ trân bảo đó. Phải là con em quan thần hoặc dòng dõi thế gia vọng tộc mới có cơ hội học thư họa theo đúng quy cách bài bản. Và điều đó gần như là bất khả đối với chàng thiếu niên họ Tề .

Sau này, trong khoảng giai đoạn sau bốn mươi tuổi, Tề Bạch Thạch đã thực hiện cuộc “ ngũ xuất ngũ quy” ( năm lần đi năm lần về ) để ngao du khắp các danh lam thắng cảnh, tìm người có danh tiếng trong giới để bái sư học họa, kết giao với giới thư họa khắp bốn phương, miệt mài cầu học nhằm cải thiện trình độ nghệ thuật của mình. Sau khi được tiếp xúc với các tác phẩm của Bát Đại Sơn Nhân ông dần thay đổi lối vẽ của mình theo khuynh hướng giản kiệm bút mặc, tuy sơ giản đạm nhã nhưng tạo hình bố cục lại tinh vi chặt chẽ. Nhưng như trên đã nói, phong cách thanh đạm giản phác ảnh hưởng từ họ Chu lại khiến Tề Bạch Thạch bị giới họa Bắc Kinh xa lánh, đẩy ông lâm vào cảnh túng quẫn trong giai đoạn đầu chuyển đến kinh đô. Không những thế, ngay đến chính Tề Bạch Thạch cũng thường xuyên cảm thấy không thỏa mãn với sáng tác của mình, ông từng nói : “ Tôi mặc dù đã vẽ tranh mấy chục năm rồi mà vẫn chưa thấy cái gì thực sự là của mình”.

Kể từ khi gặp được người hậu bối danh tiếng là Trần Sư Tăng, Tề Bạch Thạch như được chuyển đầu đổi não, một con đường nghệ thuật rộng mở phía trước được mở ra dưới ngón tay chỉ lối của họ Trần. Danh họa Trần Tử Trang (陈子庄)(1913-1976), một trong những đệ tử xuất sắc của Tề Bạch Thạch sau này đã kể lại trong trong Thạch Hồ họa ngữ lục (石壶画语录) rằng: Tề Bạch Thạch thời trẻ chuyên vẽ mỹ nữ và khá có tiếng tăm, được người địa phương xưng tụng là Tề mỹ nhân (mỹ nhân của họ Tề). Trần Sư Tăng sau khi xem tranh mỹ nữ của Tề Bạch Thạch đã chẳng ngại ngần mà phê phán : “Anh tính tình thô khoáng, chỉ đặt bút xuống là thấy thô kệch rồi, làm sao vẽ nổi mỹ nữ, thôi, tốt nhất là nên học theo lối đại tả ý, mới mong biến cái thô phác thành cái đẹp được” . Trần Sư Tăng sau đó đã khuyên Tề Bạch Thạch học theo khuynh hướng tả ý của Dương châu bát quái (9)đời Thanh, và gần nhất là của Ngô Tuấn Khanh tức họa gia Ngô Xương Thạc lừng danh đương thời, sau đó ông còn mượn bạn bè hai mươi bức tranh của Ngô Xương Thạc để Tề Bạch Thạch lâm tập. (10)

Dưới sự chỉ bảo dẫn dắt của Trần Sư Tăng, Tề Bạch Thạch đã buông hẳn lối cũ, tận chí cải đổi. Đến nỗi ông còn muốn người huynh đệ của mình chỉ ra cho tường tận bức nào hay bức nào dở, nếu hay thì hay ở đâu, nếu dở thì dở chỗ nào, nét bút nào đạt, nét bút nào chưa đạt. Một lòng dốc chí hướng thượng, cầu học đến tận cùng. Trong suốt ba năm, ông bảo vợ khóa trái cửa lại, ngày ngày giam mình trong phòng nghiền ngẫm lâm tập, đến nỗi vì ít ra sáng mà màu da trở nên nhợt nhạt trắng bệch. Rồi một ngày kia , không phụ công phu khổ luyện của người họa sĩ lão thành, Lâm Cầm Nam (林琴南, một danh sĩ đương thời sau khi xem một bức vẽ quạt của Tề Bạch Thạch đã phải thốt lên : “Nam Ngô Bắc Tề (11), cái đẹp có thể tương sánh rồi”.

Một sự kiện thứ hai không thể không kể đến, và cũng nhờ có con mắt Bá Nhạc của Trần Sư Tăng mà sự nghiệp nghệ thuật của Tề Bạch Thạch lại thêm một cơ hội chuyển biến to lớn . Đó là vào năm 1922, nhờ mối quan hệ với giới họa Nhật bản mà Trần Sư Tăng được mời sang Đông Kinh để tổ chức một cuộc triển lãm giao lưu giữa giới thư họa hai nước. Lần này không ai khác ngoài Tề Bạch Thạch được Trần Sư Tăng chọn tranh mang sang triển lãm. Từ lâu người Nhật bản đã rất hâm mộ các sáng tác của Ngô Xương Thạc, và đối với người Nhật lúc đó, Ngô Xương Thạc là họa sĩ Trung quốc kiệt xuất nhất. Nhưng một điều khiến công chúng tham quan hết sức kinh dị, đó là khi họ nhìn thấy tác phẩm của một họa sĩ vô danh được Trần Sư Tăng đề giá cao hơn cả họ Ngô, điều này thực sự đã khiến giới họa Nhật bản một phen chấn động. Ai có thể đạt tầm vóc hơn cả Ngô Xương Thạc, nhất là khi người đó lại được tiến cử bởi một họa gia danh tiếng và đầy uy tín như Trần Sư Tăng ? Và thế là người ta đổ xô đến để xem tranh của Tề Bạch Thạch. Chẳng mấy chốc mà toàn bộ số tranh mang đi đã bán hết sạch và cái giá được trả cao gấp hai mươi lần giá tranh hiện đang bán ở Trung quốc của họ Tề, quả là một thành công ngoài sức tưởng tượng. Thậm chí người Nhật còn ngỏ ý muốn quay một bộ phim cho riêng hai họa gia. Cũng kể từ đó mà khách hàng nước ngoài đến mua tranh của họ Tề ngày càng nhiều , giá tranh của ông cũng càng ngày càng cao, đời sống cũng từ đó mà dần ổn định.

Có thể nói nếu không nhờ có Trần Sư Tăng nhìn ra tài năng và khích lệ truyền cảm hứng thì chúng ta sẽ không thể có một Bạch Thạch lão nhân ”đại biến” trong những năm tháng mà tuổi tác đã không còn là đồng minh của mọi sự đột phá. Đó quả là một cuộc đại cách tân nghệ thuật xưa nay hiếm, mà ông tự gọi là ”suy niên biến pháp”, tức là “về già đổi phép”. Nhờ sự khích lệ của Trần Sư Tăng mà tinh thần ”nhất quyết đổi phép” của Tề Bạch Thạch vốn đã ấp ủ day dứt bấy lâu nay như đuợc chắp cánh: ”Từ nay tôi quyết định đại biến, người muốn chửi tôi, tôi cũng chẳng nghe, người muốn khen tôi, tôi cũng chẳng vui”. Từ đó, ông bất chấp mọi sự công kích của tầng lớp họa gia bảo thủ, công thức đương thời, mạnh dạn sáng tạo, đột phá vào chỗ bế tắc của họa đàn cuối Thanh đầu Dân quốc, nơi nuôi dưỡng những tư tưởng họa viện cổ lậu, sùng cổ một cách mù quáng, quẩn quanh trong vòng cô tịch, lạnh lùng của những phương pháp cứng nhắc mà quay lưng với thực tại.

Tranh của Tề Bạch Thạch mang lại sinh khí mới, bằng những vẻ đẹp của cảnh vật và con người thuộc tầng lớp bình dân, không còn là thứ nghệ thuật cao đạo lánh đời chỉ dành riêng cho tầng lớp sĩ đại phu phong kiến nữa. Điểm độc đáo có lẽ đến thời điểm đó chỉ duy nhất có ông dám làm, đó là đưa caí thô phác hồn nhiên của nghệ thuật dân gian, cái vốn mà ông đã tích lũy từ thuở nhỏ khi còn là một thợ chạm gỗ vào trong “thánh đường” của Văn nhân họa (12).

Ai cũng biết Văn nhân họa, kể từ sau sự xướng đạo của Tô Đông Pha (13)thời Tống đã được các thế hệ văn nhân sĩ phu của nhiều thế kỉ sau dày công vun đắp, trở thành một thành trì nghệ thuật riêng biệt của giới tri thức tinh hoa phong kiến, nơi mà những người có địa vị thấp kém, chưa từng thông kinh bác sử rất hiếm khi có cơ hội tiếp cận. Văn nhân họa đến cuối đời Thanh lâm vào tình trạng giáo điều bế tắc, tôn sùng cổ nhân một cách cực đoan, từ đề tài cho đến bút pháp đều nhất nhất phải sao chép cổ nhân. Dần dà khiến nghệ thuật trở thành một công thức cứng nhắc, tụng ca quá khứ, quay lưng lại với đời sống thực tại. Giữa cái không khí bảo thủ ngột ngạt đó, sự cải đổi của Tề bạch thạch như đóa hoa hướng dương nở giữa mây mù, sống động rực rỡ , làm ấm lên cả một vùng xám lạnh tăm tối của trường phái phục cổ .

Tranh của Tề Bạch Thạch toát lên vẻ đẹp riêng có chính là vì được nuôi dưỡng bởi hơi ấm của một trái tim hồn hậu trong trẻo. Một lão họa gia với tay nghề lão luyện nhưng lại mang con tim rung động như một đứa trẻ. Bất cứ sự vật gì lọt vào mắt ông cũng được quan sát dưới một nhãn quan dí dỏm tinh nghịch. Chính từ quan sát thực tế, nắm bắt tỷ mỷ hình thù đối tượng để diễn tả được hình, và sau đó lấy cái màu sắc của nội tâm ra tô vẽ cho hình thù ấy vừa giống ngoại cảnh , vừa giống tâm cảnh , đó cũng chính là muợn sự vật của tạo hóa để biểu hiện cái tinh thần sống nội tại của chính mình vậy. Ông đã thực hiện đúng với lời của danh họa Trương Tảo (14)đời Đường rằng “Ngoại sư tạo hóa, trung đắc tâm nguyên”, nghĩa là bên ngoài học từ thiên nhiên, tôn tự nhiên làm thầy nhưng bên trong lại xuất phát lòng mình, thỏa mãn cái bản chất riêng có của bản thân, dung hợp hai yếu tố khách quan và chủ quan trong tranh để đạt tới cái đích “Hình thần kiêm bị”.

Nói ra tuy dễ nhưng trong lịch sử hội họa liệu có mấy nguời đạt được thành tựu đó. Không chỉ kế thừa di huấn của tiền nhân, mà qua thực tiễn quan sát và sáng tạo, Tề Bạch Thạch cũng tự rút ra những điều mà ông cho là cốt tủy của nghệ thuật , những lời đó tuy dung dị, mộc mạc song đã hóa thành bất hủ, được các thế hệ hậu sinh truyền học, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là :”Vẽ tranh vi diệu ở chỗ vừa giống vừa không giống. Nếu quá giống tức là chiều theo thế tục, mà không giống thì là nhạo báng thế nhân ”.

Tranh của Tề Bạch Thạch sở dĩ được mọi tầng lớp yêu thích, là do ông đã biết dung hợp một cách tài tình giữa cái thuần phác nhân bản của nghệ thuật dân gian với cái thanh nhã cao thượng của Văn nhân họa, cũng như hòa tan được những đối nghịch tưởng chừng như không thể dung hòa giữa trí tuệ và bản năng, giữa cái thô và cái tế, cái tục và cái nhã, cái cầu kỳ và cái giản đơn… điển hình trong việc ông đã dám kết hợp giữa ”công bút” (lối vẽ tỷ mỷ, tinh vi) với ”tả ý” (lối vẽ phóng túng, bay bổng) trong rất nhiều tác phẩm về thảo trùng. Song, theo ông thì tất cả đều phải chuyển hóa, như lời Thạch Đào, một họa gia kiệt xuất cuối Minh đầu Thanh từng nói , đó là: ”Bút mực phải tùy theo thời đại”(笔墨当随时代)

Nhưng dù bản thân Tề Bạch Thạch có tự dùi mài tu dưỡng đến thế nào, thì chúng ta vẫn phải khẳng định một điều rằng, nếu như thiếu đi sự dìu dắt khích lệ của nguời bạn tri kỉ Trần Sư Tăng, ông có lẽ đã không thể đi đến cái đích cuối cùng của nghệ thuật, để ngày hôm nay chúng ta vẫn còn đuợc hân hưởng cái vẻ đẹp ấm áp, tràn đầy tình yêu cuộc sống bất diệt đó.

Tạ Duy tổng hợp (Bài cũ đăng trên tạp chí TIA SÁNG có nhiều chỗ bị biên tập cắt mất, nay đăng lại bản full uncut )

Chú thích :

(1) Bát Đại Sơn Nhân (1626 – 1705) tên thật là Chu Thống Thác, hiệu Bát Đại Sơn Nhân , Tuyết cá, Cá sơn, Nhân ốc, Đạo lãng .v.v.. Họa gia kiệt xuất cuối Minh đầu Thanh, dòng dõi hoàng tộc, hậu duệ của Minh thái tổ Chu Nguyên Chương. Sau khi nhà Minh diệt vong ông xuất gia đầu Phật, sau cải sang đạo sĩ , một trong Thanh sơ tứ họa tăng ( bốn nhà sư họa sĩ đầu đời Thanh) bao gồm : Bát đại sơn nhân, Thạch đào, Hoằng nhân, Khôn tàn . Phong cách sáng tác của ông rất có ảnh hướng với hậu thế.

(2) Bá Nhạc : người thời Xuân thu, tương truyền có biệt tài xem tướng ngựa . Người đời sau dùng tên ông để chỉ những người có năng lực phát hiện , tiến cử, bồi duỡng những tài năng còn đang ẩn dấu.

(3) Thẩm Châu (1427 – 1509) tự Khải nam , hiệu Thạch điền, Bạch thạch ông , Ngọc điền sinh, Hữu trúc cư chủ nhân... Họa gia kiệt xuất thời Minh, lãnh tụ Ngô môn họa phái , một trong Minh tứ gia (bốn họa gia kiệt xuất triều Minh) bao gồm : Thẩm Châu , Văn Chinh Minh, Đường Dần , Cừu Anh.

(4) Thạch Đào (1642 – 1708): hoàng thất nhà Minh. Họ Chu , tên Nhuợc Cực, người Quế lâm Quảng tây , ông có rất nhiều biệt hiệu như Đại địch tử , Thanh tương lão nhân , Khổ qua hòa thượng, Hạt tôn giả ...Sau khi nhà Nam Minh diệt vong, xuất gia lấy pháp hiệu Nguyên tế. Họa gia kiệt xuất cuối Minh đầu Thanh , một trong Thanh sơ Tứ họa tăng. Các lí luận hội họa và sáng tác của ông có ảnh hưởng rất lớn tới hậu thế .

(5) Ngô Xương Thạc (1844 - 1927): tên Tuấn Khanh, tự là Xương Thạc. Danh họa cuối đời Thanh, lãnh tụ của Hải Thượng họa phái ( Hải phái) , ông cùng với Bồ Hoa, Hư Cốc, Nhiệm Bá Niên được xưng tụng là Thanh mạt Hải phái tứ đại gia. Giỏi thi văn, thư pháp, triện khắc, đại diện kiệt xuất cuối cùng của Văn nhân họa. Ảnh hưởng của ông bao trùm lên hầu hết Trung quốc họa thế kỉ 20

(6) Từ Vị (1521 – 1593): tên là Văn Trường, hiệu Thanh đằng lão nhân , Thanh đằng đạo sĩ , Thiên trì chủ, Thiên trì sơn nhân , Thiên trì ngư ẩn.....Thư họa gia , văn học gia, hý khúc gia, quân sự gia thời Minh. Bác học đa tài , từng hiến kế cho Hồ Tôn Hiến bắt thủ lĩnh Oa khấu là Từ Hải , Uông trực. Sau bè đảng của Nghiêm Tung bị diệt , ông cùng Hồ Tôn Hiến đều bị vạ lây . Hồ Tôn Hiến tự sát chết trong ngục, còn Từ Vị vì lo sợ nên phát điên, chín lần tự sát không chết, sau lại vô tình giết vợ, bị hạ ngục, nhờ bạn bè cứu giúp nên đựợc tha. Cuối đời chết trong nghèo khổ. Ông cùng với Trần Thuần đã đưa bút pháp đại tả ý đến cùng cực của sự biểu hiện, bút mực bôn phóng hào mại, ý thú tung hoành sảng kiện, ảnh hưởng tới hậu thế không thể nói hết.

(7) Trần Thuần (1483 - 1544) : tự là Đạo phục , hiệu Bạch dương sơn nhân, họa gia kiệt xuất thời Minh , phong cách hoa điểu họa tả ý của ông có ảnh hưởng lớn tới hậu thế, cùng với Từ Vị được xưng tụng là “ Bạch Dương Thanh Đằng”.

(8) Đại tả ý : tên một loại họa pháp tương truyền được khai phá từ đời Đường bởi Vương Hợp, sau được Nam Tống Lương Khải, Minh đại Từ Vị phát triển. Các thế hệ họa gia về sau như Bát đại sơn nhân, Thạch Đào, Dương châu bát quái, Hư Cốc , Nhiệm Bá Niên, Ngô Xương Thạc, Trần Sư Tăng, Tề Bạch Thạch, Trương Đại Thiên, Phó Bão Thạch .....đã đưa đại tả ý trở thành một họa pháp cực thịnh trong Trung quốc họa. Đặc điểm dễ nhận ra của họa pháp này là bút mực hết sức tự do khoáng đạt , không chú trọng tiểu tiết, đề cao cảm xúc cá nhân .

(9) Dương Châu bát quái : chỉ một nhóm họa gia hoạt động ở đất Dương châu trong khoảng thời gian từ Khang Hy đến Càn Long đời nhà Thanh. Nhóm này do có phong cách và xu hướng sáng tác khá tương đồng nên được dân gian gọi chung là Bát quái. Thực chất con số này không chỉ dừng lại ở tám người , những họa gia tiêu biểu gồm có : Trịnh Bản Kiều , Kim Nông, Hoàng Thận, La Sính , Cao Tường , Uông Sĩ Thận, Lý Thiện, Lý Phương Ưng, Mẫn Trinh, Biên Thọ Dân , Hoa Nham, Cao Phượng Hàn .....Họ đều là những họa sĩ xuất thân Nho gia, một số mắc nghiệp khoa cử lận đận, một số lại bất mãn với quan trường mà từ quan lui về lấy việc bán tranh làm kế sinh nhai. Nhưng tựu chung họ đều có một khí phách ngang tàng, khinh đời ngạo thế, bất chấp quy củ, phản kháng với những tệ đoan của xã hội và cả những lề thói giáo điều hủ lậu trong giới thư họa đương thời. Ảnh hưởng của Dương châu bát quái với hậu thế rất lớn .

(10) Lâm tập : là hình thức học tập thư họa bằng cách sao chép các danh tác của người đi trước. Thông thường đuợc gọi chung là lâm mô. Lâm là đối diện với nguyên tác để chép theo. Mô là để một tờ giấy mỏng không ngấm nước lên nguyên tác để tô theo. Lâm thì thường được ý nhưng mất hình, Mô thì thường được hình nhưng mất ý .

(11) Nam Ngô bắc Tề : Ngô Xương Thạc hoạt động ở Thượng hải ( phía nam) , Tề Bạch Thạch hoạt động ở Bắc kinh ( phía bắc) nên gọi xưng là Nam Ngô bắc Tề . Còn một cách gọi khác là Nam Hoàng bắc Tề , ý chỉ danh họa Hoàng Tân Hồng (Chiết giang) và Tề Bạch Thạch (Bắc kinh )

(12) Văn nhân họa : hay còn gọi là Sĩ đại phu tả ý họa , Sĩ phu họa . Là một xu hướng hội họa biểu đạt tư tưởng và tình cảm của tầng lớp trí thức phong kiến. Xuất hiện sớm nhất dưới thời Ngụy Tấn nam bắc triều, về sau được các thế hệ văn nhân kiệt xuất như Tô đông pha, Mễ phất, Triệu mạnh phủ ....hoằng dương và tiếp nối, trở thành một xu hướng hội họa chủ lưu của Trung quốc họa suốt nhiều thế kỉ.

(13) Tô Đông Pha ( 1037 – 1101) : tên là Tô thức, tự Tử chiêm, Hòa trọng, hiệu Đông pha cư sĩ. Nhà văn, nhà thơ , họa sĩ, nhà thư pháp lỗi lạc trong lịch sử Trung quốc. Về văn chương ông được xếp vào trong Đường Tống bát gia .Về thư pháp ông có tên trong Bắc Tống tứ gia : Tô đông pha , Hoàng đình kiên, Mễ phất , Sái tương. Thường được gọi tắt là Tô Hoàng Mễ Sái . Ông có công lao rất lớn trong việc phát dương Văn nhân họa thời Tống.

(14) Trương Tảo (张璪) : họa gia đời Đường . Kế thừa họa pháp nam tông của Vương duy . Sáng tạo ra thủ pháp Phá mặc , ảnh hưởng lớn tới hậu thế .
Nguồn : Chuyện THƯ chuyện HỌA
1 0 11,519 9
Đánh giá của bạn
1+
2+
3+
4+
5+
6+
7+
8+
9+
10+

Bình Luận

Đăng nhập để bình luận cho bài viết