Pha trà như thế nào cho đúng?
Mỗi quốc gia với những phong tục và đặc thù riêng biệt sẽ hình thành nên cách pha chế và thưởng trà khác nhau. Với người Việt, nghệ thuật pha trà được gói trọn lại trong câu: “Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh”.
Nhất Thủy
Nước trà là yếu tố đầu tiên và quan trọng làm nên sự tinh túy của tách trà. Loại nước dùng để pha trà phải là nước tinh khiết, ngon nhất phải kể đến loại sương đọng trên lá sen. Dùng loại nước ấy lại cần đun sôi bằng ấm đất trên bếp lò. Với mỗi loại trà, độ sôi của nước lại không giống nhau. Với trà xanh, nước trà chỉ cần đun sôi sủi tăm còn với trà tẩm hương như trà sen, trà cúc, trà nhài... nước trà cần sôi già hơn. Nước chưa đủ độ sôi sẽ khiến trà không phai, còn nếu sôi quá lại khiến trà trở nên nồng đậm mà các cụ xưa còn hay gọi bằng cái tên dân giã là “cháy trà”.
Nhì Trà
Ngày nay để tiện dụng, chè khô được sử dụng nhiều để pha chế. Tuy nhiên, để có được thứ nước trà thơm nồng đúng điệu thì chè tươi, chè xanh, chè nụ mới là nguyên liệu chuẩn để pha chế. Chè phải được rửa sạch, đem vò kỹ bằng tay để làm giập lá chè, cọng chè đem bẻ nhỏ và tước thành nhiều phần. Có như vậy chỉ cần đun với nước sôi trong khoảng 15 phút, chè đã đủ độ ngấm và toàn bộ tinh chất từ lá chè sẽ được chuyển sang thứ nước vàng óng ánh trông đẹp mắt và ngon miệng.
Tam Bôi
Chén uống trà thường được lựa chọn hết sức tỉ mỉ. Đường kính của chén không nên quá rộng, thường chỉ nhỏ nhắn như hột mít hay mắt trâu, bởi thưởng trà không quan trọng về lượng mà lại quan trọng về chất và tinh thần. Thường một bộ chén sẽ có bốn chén quân, một chén tống (chén to nhất) dùng để chuyên trà. Khi rót trà cần lưu ý, nếu bộ trà có chén tổng thì đem rót ra chén tống trước rồi san từ đó ra các chén quân. Còn không có chén tống, có thể rót thẳng vào chén quân, nhưng lưu ý thêm là cần rót lần lượt từng ít một vào chén rồi xoay vòng, rót ngược lại, có như thế thì các chén trà mới cùng đậm đà như nhau.
Tứ Bình
Trước khi pha trà, bình phải được tráng qua bằng nước sôi bằng cách tưới lên bình trà. Trà đựng trong bình phải được pha vừa đủ lượng để không nhạt quá cũng không đắng quá. Sau khi rót đủ nước pha trà ngập mặt, người pha sẽ đổ đi nước đầu tiên để rửa trà (Tục này được bắt nguồn từ thành ngữ xưa: tửu tam trà nhị, tức là rượu đến chén thứ ba mới ngấm - trà đến nước thứ hai mới ngon). Sau đó, người pha trà sẽ hoàn tất khâu cuối cùng, đổ nước gần đầy bình, đem đậy nắp, rót lên nắp bình một lượng nhỏ nước nóng để lưu giữ thứ mùi hương tinh khiết, thơm dịu của trà. Sau 1-2 phút, trà vừa tay, chủ nhà sẽ có thể đem trà mời khách.
Ngũ Quần Anh
Nhà văn Nguyễn Tuân có câu: “Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính”. Người thưởng trà, bạn trà vì thế mới quan trọng, khó kiếm, hiếm gặp. Chỉ có tri kỷ mới có thể im lặng ngồi bên chén trà mà vẫn thấu hiểu được tâm ý của nhau.
Tất cả các công đoạn cầu kỳ ấy, từ chọn nước, chọn trà, pha trà, rót trà đều thấm đẫm màu sắc văn hóa truyền thống và tụ hội tinh hoa dân tộc Việt Nam vốn đã được gìn giữ và lưu truyền qua hàng ngàn năm.
Lưu ý khi thưởng trà
Người xưa có câu rượu ngâm nga, trà liền tay tức là trà phải uống ngay lúc còn nóng mới ngon. Tay nâng ly trà, nhấp từng chút một để cảm thụ hương vị của trà khi chạm vào đầu lưỡi, thẩm thấy vào ruột gan để thấy tâm hồn mình lắng đọng lại. Uống trà còn được ví như uống cả một luồng văn hóa Việt, hương trà còn vấn vương sau khi uống cũng như văn hóa dân tộc luôn còn mãi trong tâm trí của mỗi người Việt, ngay cả khi xa xứ.
Dâng trà đã là một ứng xử văn hóa phổ quát biểu hiện sự lễ độ, lòng mến khách. Khi dâng trà nên mời từ người lớn tuổi nhất, cũng giống như khi mời ăn uống bình thường. Thưởng trà ngon phải được đặt trong không gian thanh tịnh, có như thế thì tác dụng di dưỡng tinh thần của trà mới được đẩy cao đến đỉnh điểm.
Những lúc đầu óc đang bị dao động bởi cảm xúc mạnh, được ngồi xuống thưởng thức một tách trà, bạn sẽ thấy mọi nóng giận đều được rửa trôi nhanh chóng.
Chính vì thiên về sự yên tĩnh, lắng đọng tinh thần nên thời điểm lý tưởng nhất để thưởng trà là khi rảnh rang công việc, lúc sáng sớm, khi buổi tiệc đã tàn, khách khứa đã về, hay trong một mái đình cổ kính, bên một hồ sen thơm ngát... chứ không nên uống trà khi đang bị bủa vây bởi bận rộn, công việc, hoặc ở những chốn đông người.
Uống trà cũng rất cần sự tiết độ. Người biết về trà thường không uống nhiều, uống đặc và cũng không uống liên tục suốt ngày. Bởi trà đại diện cho sự tế nhị, nhạy cảm, thanh tao, tạo không gian để suy ngẫm và khiến đầu óc tỉnh táo.
Uống trà để giữ tâm thanh tịnh, mưu điều thiện, tránh điều ác, để lưu giữ một nét văn hóa thanh lịch và tỏa hương. Trà đạo và nghệ thuật thưởng trà chính vì thế đã trở thành một thú vui tao nhã của người Việt nói riêng và người Á Đông nói chung, cần được gìn giữ, thẩu hiểu và trân trọng.
(An Nghi)
Nhất Thủy
Nước trà là yếu tố đầu tiên và quan trọng làm nên sự tinh túy của tách trà. Loại nước dùng để pha trà phải là nước tinh khiết, ngon nhất phải kể đến loại sương đọng trên lá sen. Dùng loại nước ấy lại cần đun sôi bằng ấm đất trên bếp lò. Với mỗi loại trà, độ sôi của nước lại không giống nhau. Với trà xanh, nước trà chỉ cần đun sôi sủi tăm còn với trà tẩm hương như trà sen, trà cúc, trà nhài... nước trà cần sôi già hơn. Nước chưa đủ độ sôi sẽ khiến trà không phai, còn nếu sôi quá lại khiến trà trở nên nồng đậm mà các cụ xưa còn hay gọi bằng cái tên dân giã là “cháy trà”.
Nhì Trà
Ngày nay để tiện dụng, chè khô được sử dụng nhiều để pha chế. Tuy nhiên, để có được thứ nước trà thơm nồng đúng điệu thì chè tươi, chè xanh, chè nụ mới là nguyên liệu chuẩn để pha chế. Chè phải được rửa sạch, đem vò kỹ bằng tay để làm giập lá chè, cọng chè đem bẻ nhỏ và tước thành nhiều phần. Có như vậy chỉ cần đun với nước sôi trong khoảng 15 phút, chè đã đủ độ ngấm và toàn bộ tinh chất từ lá chè sẽ được chuyển sang thứ nước vàng óng ánh trông đẹp mắt và ngon miệng.
Tam Bôi
Chén uống trà thường được lựa chọn hết sức tỉ mỉ. Đường kính của chén không nên quá rộng, thường chỉ nhỏ nhắn như hột mít hay mắt trâu, bởi thưởng trà không quan trọng về lượng mà lại quan trọng về chất và tinh thần. Thường một bộ chén sẽ có bốn chén quân, một chén tống (chén to nhất) dùng để chuyên trà. Khi rót trà cần lưu ý, nếu bộ trà có chén tổng thì đem rót ra chén tống trước rồi san từ đó ra các chén quân. Còn không có chén tống, có thể rót thẳng vào chén quân, nhưng lưu ý thêm là cần rót lần lượt từng ít một vào chén rồi xoay vòng, rót ngược lại, có như thế thì các chén trà mới cùng đậm đà như nhau.
Tứ Bình
Trước khi pha trà, bình phải được tráng qua bằng nước sôi bằng cách tưới lên bình trà. Trà đựng trong bình phải được pha vừa đủ lượng để không nhạt quá cũng không đắng quá. Sau khi rót đủ nước pha trà ngập mặt, người pha sẽ đổ đi nước đầu tiên để rửa trà (Tục này được bắt nguồn từ thành ngữ xưa: tửu tam trà nhị, tức là rượu đến chén thứ ba mới ngấm - trà đến nước thứ hai mới ngon). Sau đó, người pha trà sẽ hoàn tất khâu cuối cùng, đổ nước gần đầy bình, đem đậy nắp, rót lên nắp bình một lượng nhỏ nước nóng để lưu giữ thứ mùi hương tinh khiết, thơm dịu của trà. Sau 1-2 phút, trà vừa tay, chủ nhà sẽ có thể đem trà mời khách.
Ngũ Quần Anh
Nhà văn Nguyễn Tuân có câu: “Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính”. Người thưởng trà, bạn trà vì thế mới quan trọng, khó kiếm, hiếm gặp. Chỉ có tri kỷ mới có thể im lặng ngồi bên chén trà mà vẫn thấu hiểu được tâm ý của nhau.
Tất cả các công đoạn cầu kỳ ấy, từ chọn nước, chọn trà, pha trà, rót trà đều thấm đẫm màu sắc văn hóa truyền thống và tụ hội tinh hoa dân tộc Việt Nam vốn đã được gìn giữ và lưu truyền qua hàng ngàn năm.
Lưu ý khi thưởng trà
Người xưa có câu rượu ngâm nga, trà liền tay tức là trà phải uống ngay lúc còn nóng mới ngon. Tay nâng ly trà, nhấp từng chút một để cảm thụ hương vị của trà khi chạm vào đầu lưỡi, thẩm thấy vào ruột gan để thấy tâm hồn mình lắng đọng lại. Uống trà còn được ví như uống cả một luồng văn hóa Việt, hương trà còn vấn vương sau khi uống cũng như văn hóa dân tộc luôn còn mãi trong tâm trí của mỗi người Việt, ngay cả khi xa xứ.
Dâng trà đã là một ứng xử văn hóa phổ quát biểu hiện sự lễ độ, lòng mến khách. Khi dâng trà nên mời từ người lớn tuổi nhất, cũng giống như khi mời ăn uống bình thường. Thưởng trà ngon phải được đặt trong không gian thanh tịnh, có như thế thì tác dụng di dưỡng tinh thần của trà mới được đẩy cao đến đỉnh điểm.
Những lúc đầu óc đang bị dao động bởi cảm xúc mạnh, được ngồi xuống thưởng thức một tách trà, bạn sẽ thấy mọi nóng giận đều được rửa trôi nhanh chóng.
Chính vì thiên về sự yên tĩnh, lắng đọng tinh thần nên thời điểm lý tưởng nhất để thưởng trà là khi rảnh rang công việc, lúc sáng sớm, khi buổi tiệc đã tàn, khách khứa đã về, hay trong một mái đình cổ kính, bên một hồ sen thơm ngát... chứ không nên uống trà khi đang bị bủa vây bởi bận rộn, công việc, hoặc ở những chốn đông người.
Uống trà cũng rất cần sự tiết độ. Người biết về trà thường không uống nhiều, uống đặc và cũng không uống liên tục suốt ngày. Bởi trà đại diện cho sự tế nhị, nhạy cảm, thanh tao, tạo không gian để suy ngẫm và khiến đầu óc tỉnh táo.
Uống trà để giữ tâm thanh tịnh, mưu điều thiện, tránh điều ác, để lưu giữ một nét văn hóa thanh lịch và tỏa hương. Trà đạo và nghệ thuật thưởng trà chính vì thế đã trở thành một thú vui tao nhã của người Việt nói riêng và người Á Đông nói chung, cần được gìn giữ, thẩu hiểu và trân trọng.
(An Nghi)