Trà & Nhân sinh quan

 

Nước sôi réo gọi, bông khí trào lên như hơi thở mây ngàn. Những lá trà khô xám – tưởng chừng đã ngủ yên trong tĩnh lặng – bỗng thức tỉnh giữa nồng nhiệt. Chúng dần duỗi mình, nở bung màu ngọc lục, như vầng sáng sinh lực hồi sinh sau đông tàn. Đời người đâu khác? 

Phận nhân sinh nào chẳng một lần ngụp trong đắng cay, để rồi khi gặp thử thách chính ngọt ngào chiết xuất, tinh hoa thăng hoa.

Uống trà là đối thoại với nội tâm. Chén đầu đón bằng nụ cười nhăn mặt: đắng chát đọng lưỡi, như những trái đắng cuộc đời không tránh được. Chần chừ chút, vị đắng tan thành ngọt dịu cuống họng – tựa hạt bụi vàng ưu tư qua nắng gió hóa thành nguồn bình an. Từ chuyện trà, thấu được đạo trùng sinh: sau mưa giông mới có cỏ non thơm mức nồng, khổ nạn gạn lọc kiên tâm.

Dưỡng thân chẳng phải thuật trường sinh cầu kỳ. Ngắm trà chìm bồng bềnh, ta học lẽ thả trôi. Đời là dòng sông, cứ khư khư bám víu vào bến bờ nào khác nào giữ lá trà mãi dưới đáy tách? Tự do ở chỗ thuận nước xuôi dòng, như ngọn cỏ kiên nhẫn uốn mình trong bão. Tứ thời đều riêng sắc thái: xuân trà thanh tú, hạ trà rục rịch nắng, thu trà đượm hương hoài niệm, đông trà ấm lòng hanh hao. Con người biết thuận theo nhịp đất trời ắt tránh được thương tổn.

Chỉ tay nâng chén cũng là tụng kinh vô ngôn. Ngón trỏ và ngón giữa đỡ đáy chén như nâng niu mầm sống, ngón cái khẽ chạm miệng sứ như điểm khởi nguyên. Tư thế ấy dạy ta khiêm nhường tiếp nhận – nhận những khi bão lòng phủ xuống, nhận nỗi đau chẳng thể khước từ. 

Một người bạn già từng nói với tôi: “Kho báu thực sự không phải ấm trà Tứ Quý, mà là người thấu được câu ‘chén không đầy mới giữ được chén lành’”. Mỗi lần chỉ rót bảy phần, ta nhường chỗ cho điều chưa biết.

Khuya về, ngọn đèn đơn độc soi bóng ta và ấm trà Nhân Trần. Phảng phất hương khói vấn vương góc thềm. Tách trà lúc ấy không còn là giải khát. Nó thành nơi quán tưởng, để những hỉ nộ ái ố theo làn khói nước thoát ly. Chỉ khi thanh lịch chú vào khoảnh khắc chạm nhau giữa môi và men sứ, ta mới nhận ra: nhân sinh nằm trọn trong khoảng lặng ấy. Kẻ điên say kiếm tìm hạnh phúc đích đích xa xôi nào ngờ bản thể tự tại nằm ngay trong tích tắc đủ đầy này.

Sáng sớm mai, pha ấm trà Phổ Nhỉ sống. Cho lá vào ấm đất nung, dốc từ từ nước non sôi nhỉnh hơn 90 độ. Ngồi thật yên, nghe mùi cỏ lúa hoà với sương giăng. 

Uống hớp trà, thưởng chậm thôi, để vị thơm tràn nơi đầu lưỡi rồi len vào kinh mạch. Đông y nói: "Thần định thì khí thuận". Khi tâm không vọng động, khí huyết tự nhiên vận hành nhuần nhuyễn. Cổ nhân cười khôn: người sống thọ không ở thuốc tiên, mà ở tâm thức không ôm mang sầu bi. Uống trà hay tu thiền, sau cùng đều quy về chữ "Buông".

Chiều tà, đặt lên bàn gỗ một ấm trà Ô Long. 

Khách qua đường mệt nhọc, xin chén giải khát. Không cần biết họ giàu hay hèn, chỉ biết trao đi ly trà trong là mở rộng vòng tay với đất trời. Đón khách không trà khác nào thiếu mặt trời ban mai. Ai từng thấy cảnh cụ già gạn bã trà dưới nắng tháng Chạp, chậm rãi đổ vào gốc cúc tần già, sẽ thấu cái đạo dưỡng sinh muôn thuở: Làm người nhân đức là giữ cho đất đai mẹ cha được thanh tịnh, chứ không màng tích đáy rương vàng.

Tôi đã chứng kiến một thiền sư rót trà trong im lặng giữa giông gió. Bàn tay ngài không run, mắt nhìn tập trung vào dòng nước hổ phách chảy xuôi như tình yêu vô ngại. 

Sau này mới hay: nghệ thuật thật sự không nằm ở pháp cụ cao cấp, mà ở chỗ ta đủ tĩnh tại để giữ tâm như gương giữa kinh thành náo loạn. 

Mỗi sớm dậy, tôi tự đặt câu hỏi: “Hôm nay mình có đủ bình an rót trà mà không vướng lo toan giận hờn?”. Thành tựu lớn nhất đời người, xét cho cùng, chính là giữ được tay rót trà thật vững.

Rót thêm một chén đi, hỡi lữ khách! Để vị đời thấm qua cổ họng, để cái đẹp đơm hoa nơi đầu lưỡi. Khi ánh chiều tắt rụi bên song, chén trà nguội rồi thời gian tan vào dĩ vãng… chỉ một khoảnh khắc hiện tiền còn lại. 

Vậy thì – hãy uống hết đi, chén trà nồng nàn thiên địa này, ngụm ngọt ngào thoáng chốc mang tên Nhân Gian...

Uống Trà Thôi,
Sáng an nhiên, các trà hữu!

 

 

Đánh giá của bạn
1+
2+
3+
4+
5+
6+
7+
8+
9+
10+

Bình Luận

Đăng nhập để bình luận cho bài viết