Tinh hoa trong thú thưởng trà của Vua Chúa Việt thời xưa

Trong quá khứ, việc thưởng trà và thú uống trà đã trở nên phổ biến ở mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam, từ những người bình dân đến các cung đình thượng lưu. Những vị Vua và Chúa của các triều đại đều đặt một sự quan trọng đặc biệt đối với trà, đóng góp vào việc hình thành một nét văn hóa uống trà độc đáo của người Việt.

Uống trà là một phần không thể thiếu trong văn hóa và lối sống của người Việt Nam từ rất lâu đời. Từ thời Lý, Trần, Lê sơ (thế kỉ XI – đầu XVI), thú vui thưởng trà đã được lan tỏa trong đời sống sinh hoạt chốn cung đình. Các vị vua và chúa triều đại đều đặt sự quan trọng đặc biệt đối với trà, góp phần hình thành và phát triển một nét văn hóa uống trà độc đáo của người Việt.

Những sản phẩm gốm ngự dụng thời Lý, Trần, Lê sơ được khai quật ở Hoàng thành Thăng Long cho thấy trà đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của người Việt từ rất lâu đời. Nhiều đồ gốm sứ thuộc trà cụ (dụng cụ pha trà) được tìm thấy, điều đặc biệt là hầu hết các sản phẩm gốm ngự dụng thời Lê sơ đều có đề chữ Quan và trang trí hình rồng chân có 5 móng.

Tuy nhiên, không chỉ có cung đình mà cả nhân dân bình dân cũng yêu thích thú uống trà. Điều này được thể hiện qua việc các quán bán trà, hiệu chè, cửa hàng pha trà đã xuất hiện và phát triển từ thời Lý, Trần, Lê sơ. Trà trở thành một loại thức uống phổ biến được nhiều người ưa chuộng.

Trong thế kỉ XVII, Samuel Baron đã miêu tả về các loại trà ở Đàng Ngoài trong tác phẩm “Mô tả vương quốc Đàng Ngoài”. Theo miêu tả của ông, trong giới quý tộc, “thường uống loại chè bản địa gọi là chia-bang và chia-way. Chia-bang được chế từ lá còn chia-way được chế từ nụ và hoa, sau khi đã sao và tẩm. Người ta đun nước sôi lên để pha chè và uống nóng. Loại chia-way có vị ngon”. Theo mô tả này thì chia-bang là trà Bạng còn chia-way có thể là trà Mạn.

Trong thế kỉ XVIII, thú uống trà Tàu đã trở thành một niềm đam mê của người Việt Nam. Các nhà quý tộc, các bậc công hầu, các con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ, có khi mua một cái ấm chén, phí tổn đến vài mươi lạng bạc. Thường có nhiều người qua chơi các hiệu chè, thăm dò các phố buôn, vác tiền hết quan ấy đến chục khác để mua chuốc lấy chè ngon. Kẻ thì ưa thanh hương, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên mà mua cho được để bày khay chén ra nếm thử.

Thú uống trà Tàu trở thành một niềm đam mê và giải trí xa xỉ của giới quý tộc và đại gia trong thời kì đó. Thậm chí có kẻ đặt tiền sẵn để mua cho được hiệu chè Chính Sơn, gửi tàu buôn để đặt cho được kiểu ấm chén mới lạ, cách hiếu thượng đến thế là cùng cực.

Một trong những người nổi tiếng yêu trà nhất trong lịch sử Việt Nam là Chúa Trịnh Sâm. Ông coi mình là “trà nô” và đem triết lí trà nô vào trong các buổi ngự triều, dùng trà thay rượu để ban thưởng mỗi khi có ai đó trong các quan triều thần lập công. Đời truyền lại rằng hàng sáng khi ông ngự trà, Tuyên phi Đặng Thị Huệ sẽ tự tay quạt lò đun nước cho chồng, còn Chúa Trịnh Sâm lại tự mình hãm trà ngự thưởng chứ không sai khiến người hầu.

Ở triều Nguyễn, việc thưởng trà càng trở nên cầu kì, quý phái và được ưa chuộng hơn. Các cung nữ thường chèo thuyền nhỏ đi hứng những giọt sương vương đọng trên lá sen về pha trà cho vua dùng. Khi thưởng trà, ngoài việc uống trà, còn có các loại bánh mứt, trầm hương và than củi để tạo ra không khí thơm ngát và lịch sự hơn.

Nghệ thuật thưởng trà trong cung đình cần đầy đủ các dụng cụ pha trà và thưởng trà, từ hỏa lò, siêu đồng nấu nước, hũ sành đựng nước pha trà, hũ đựng trà, ấm trà bằng đất nung đến bộ đồ trà bằng sứ kí kiểu. Để sở hữu đầy đủ bộ dụng cụ pha trà và thưởng trà là một điều quan trọng và thể hiện sự sang trọng và quý phái trong cuộc sống của những người thưởng trà trong cung đình Việt Nam.

Trong nghệ thuật pha trà truyền thống của Việt Nam, các dụng cụ pha trà thường có xuất xứ từ trong nước, nhưng bộ ấm chén trà thì được làm từ sứ kí kiểu ở nước ngoài. Những vị hoàng đế như Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị đã đặt làm các loại ấm chén từ cả Trung Quốc, Anh và Pháp.

Một bộ đồ trà thời kỳ Nguyễn thường bao gồm các món tống, tốt, dầm và bàn. Tống, hay còn gọi là tướng, là chiếc chén lớn dùng để đựng nước trà rót ra từ ấm, chờ đợi cho cặn lắng rồi mới chuyển sang các chén tốt. Tốt, hay còn gọi là quân, là các chén nhỏ để uống trà. Dầm là chiếc dĩa lót chén tống. Bàn là chiếc dĩa có chức năng như một khay nhỏ để chứa các chén tốt.

Mỗi bộ đồ trà thường được sử dụng vào một mùa thích hợp trong năm. Đồ trà xuân – thu ẩm được dùng vào mùa xuân và thu, đồ trà hạ ẩm được dùng vào mùa hạ, và đồ trà đông ẩm được dùng trong mùa đông. Các chén xuân – thu ẩm có miệng đứng, thành cao vừa phải, xương sứ có độ dày trung bình. Các chén hạ ẩm có miệng rộng, thành thấp, nông lòng, xương sứ mỏng để nước nhanh nguội. Các chén đông ẩm có miệng kín, thành cao, sâu lòng, xương sứ dày để giữ nhiệt lâu hơn.

Các loại trà được sử dụng cho các vị hoàng đế thường được làm từ nhiều loại thảo mộc khác nhau, bao gồm hoa cúc, cỏ ngọt, đẳng sâm, hoài sơn, đại táo, hồng táo, cam thảo bắc, hồi hoa, hoa nhài, hoa hòe, vối nụ và tim sen. Mặc dù các ghi chép tản mạn trong sử sách không toàn vẹn, nhưng chúng đã phần nào phác họa vài nét đặc biệt trong bức tranh thưởng trà tinh tuý của các vị hoàng đế Việt Nam thuở trước.

Tóm lại, trà đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa và lối sống của người Việt Nam từ rất lâu đời. Từ một loại thức uống được yêu thích trong đời sống hàng ngày đến một hoạt động tinh tế, uống trà đã phát triển và trở thành một niềm đam mê không chỉ của giới quý tộc, đại gia mà còn được bắt gặp ở hầu hết mọi gia đình bình thường. Hiện nay, trà vẫn là một loại thức uống phổ biến và được yêu thích ở Việt Nam, đóng góp vào việc hình thành và phát triển văn hóa uống trà độc đáo của người Việt.

Uống Trà Thôi
Theo wikitra
Đánh giá của bạn
1+
2+
3+
4+
5+
6+
7+
8+
9+
10+

Bình Luận

Đăng nhập để bình luận cho bài viết