Thú thưởng trà của vua chúa Việt thời xưa

Thưởng trà và thú uống trà đã trở nên phổ biến ở mọi tầng lớp trong xã hội Việt Nam, từ những người bình dân đến các cung đình thượng lưu. Đặc biệt, vua chúa các triều đại đã luôn coi trọng và góp phần xây dựng nét "văn hóa uống trà” đặc biệt của người Việt.

Uống trà là một phần không thể thiếu trong văn hóa và lối sống của người Việt Nam từ rất lâu đời. Văn hóa thưởng trà như một dòng chảy xuyên suốt từ xưa đến nay và thấm đẫm vào cuộc sống, tâm hồn của những con người Việt. Trà đã được bắt nguồn, gắn liền và có sức sống mãnh liệt như cuộc sống của những con người Việt trong quá trình lâu dài của 4000 năm lịch sử.

- Nguồn gốc của trà

Nguồn gốc của trà có thể tìm được thấy khoảng hơn 4.000 năm ở Trung Hoa. Và câu chuyện được coi như huyền sử của trà mang dáng vẻ thần thoại hơn là sự thật. Vua Thần nông khi tuần thú phương Nam, vô tình uống được một thứ lá cây rơi trong nồi nước đang sôi làm cho tinh thần sảng khoái phấn chấn nên ông gọi đó là "chè."

Hoặc có một người thành thạo về y khoa, đã khám phá ra chè là một loại thảo dược vào năm 2737 trước công nguyên khi có vài chiếc lá cây rơi vào ấm nước đang đun sôi của ông. Sau khi uống thử ông đã phát hiện mình có một năng lực kỳ diệu... Ngay lập tức ông xếp cây chè vào danh sách các loại thảo dược.

- Thú thưởng trà của vua chúa Việt

Đã có giai đoạn, trà hầu như chỉ được dùng trong tầng lớp vua chúa, danh gia vọng tộc.

Ngược dòng sử sách, vào các thời Lý, Trần, Lê sơ (thế kỉ XI-đầu XVI), thú vui thưởng trà được lan tỏa trong đời sống sinh hoạt chốn cung đình. Các vị vua và chúa triều đại đều đặt sự quan trọng đặc biệt đối với trà, góp phần hình thành và phát triển một nét văn hóa uống trà độc đáo của người Việt.

Những sản phẩm gốm ngự dụng thời Lý, Trần, Lê sơ được khai quật ở Hoàng thành Thăng Long cho thấy trà đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của người Việt từ rất lâu đời. Nhiều đồ gốm sứ thuộc trà cụ (dụng cụ pha trà) được tìm thấy, điều đặc biệt là hầu hết các sản phẩm gốm ngự dụng thời Lê sơ đều có đề chữ Quan và trang trí hình rồng chân có 5 móng.

Trong thế kỉ XVII, Samuel Baron đã miêu tả về các loại trà ở Đàng Ngoài trong tác phẩm “Mô tả vương quốc Đàng Ngoài”. Theo miêu tả của ông, trong giới quý tộc, “thường uống loại chè bản địa gọi là chia-bang và chia-way. Chia-bang được chế từ lá còn chia-way được chế từ nụ và hoa, sau khi đã sao và tẩm. Người ta đun nước sôi lên để pha chè và uống nóng. Loại chia-way có vị ngon”. Theo mô tả này thì chia-bang là trà Bạng còn chia-way có thể là trà Mạn.

Trong thế kỉ XVIII, thú uống trà Tàu đã trở thành một niềm đam mê của người Việt. Thú uống trà Tàu trở thành một niềm đam mê và giải trí xa xỉ của giới quý tộc và đại gia trong thời kì đó. Theo "Vũ trung tùy bút" của Phạm Đình Hổ, sang thế kỉ XVIII, thú uống trà Tàu được người Việt sùng chuộng đến mức "Các nhà quý tộc, các bậc công hầu, các con em nhà quý thích đều đua chuộng xa xỉ, có khi mua một cái ấm chén, phí tổn đến vài mươi lạng bạc. Thường có nhiều người qua chơi các hiệu chè, thăm dò các phố buôn, vác tiền hết quan ấy đến chục khác để mua chuốc lấy chè ngon. Kẻ thì ưa thanh hương, người thì thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên mà mua cho được để bày khay chén ra nếm thử....”

Một trong những người nổi tiếng yêu trà nhất trong lịch sử Việt Nam là Chúa Trịnh Sâm. Ông coi mình là “trà nô” và đem triết lí trà nô vào trong các buổi ngự triều, dùng trà thay rượu để ban thưởng mỗi khi có ai đó trong các quan triều thần lập công. Đời truyền lại rằng hàng sáng khi ông ngự trà, Tuyên phi Đặng Thị Huệ sẽ tự tay quạt lò đun nước cho chồng, còn Chúa Trịnh Sâm lại tự mình hãm trà ngự thưởng chứ không sai khiến người hầu.

Ở triều Nguyễn, việc thưởng trà càng trở nên cầu kì, quý phái và được ưa chuộng hơn. Các cung nữ thường chèo thuyền nhỏ đi hứng những giọt sương vương đọng trên lá sen về pha trà cho vua dùng. Khi thưởng trà, ngoài việc uống trà, còn có các loại bánh mứt, trầm hương và than củi để tạo ra không khí thơm ngát và lịch sự hơn.

Theo nhà nghiên cứu Trần Đức Anh Sơn, một bộ đồ trà thời Nguyễn bao giờ cũng hội đủ các dụng cụ dùng cho việc pha trà và thưởng trà, gồm: hỏa lò, siêu đồng nấu nước, hũ sành đựng nước pha trà, hũ đựng trà, ấm trà bằng đất nung và bộ đồ trà bằng sứ kí kiểu. Ngoài ra còn có than củi, trầm hương và vài loại bánh mứt để cuộc trà thêm phần ý vị.

Những dụng cụ như hỏa lò, siêu đồng, hũ đựng trà thường là đồ nội hóa, có thể đặt làm hoặc mua trong nước, nhưng bộ ấm chén trà thì thường là đồ sứ, kí kiểu ở nước ngoài. Các hoàng đế như Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị đều đặt làm các loại ấm chén không chỉ ở Trung Quốc, mà còn ở Anh, Pháp.

Trong nghệ thuật pha trà truyền thống của Việt Nam, các dụng cụ pha trà thường có xuất xứ từ trong nước, nhưng bộ ấm chén trà thì được làm từ sứ kí kiểu ở nước ngoài. Những vị hoàng đế như Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị đã đặt làm các loại ấm chén từ cả Trung Quốc, Anh và Pháp.

Các loại trà được sử dụng cho các vị hoàng đế thường được làm từ nhiều loại thảo mộc khác nhau, bao gồm hoa cúc, cỏ ngọt, đẳng sâm, hoài sơn, đại táo, hồng táo, cam thảo bắc, hồi hoa, hoa nhài, hoa hòe, vối nụ và tim sen. Mặc dù các ghi chép tản mạn trong sử sách không toàn vẹn, nhưng chúng đã phần nào phác họa vài nét đặc biệt trong bức tranh thưởng trà tinh tuý của các vị hoàng đế Việt Nam thuở trước. Vua chúa xa xưa có thói quen thưởng trà rất cầu kỳ và công phu. Trà thường được ủ từ hôm trước, nước pha trà được hứng từ những giọt sương còn đọng lại trên búp sen vào sáng sớm hôm sau. Sau khi pha xong, trà được rót ra tách sứ long phụng, dâng bằng hai tay một cách cung kính lên “ơn trên”.

Có thể nói, trà đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa và lối sống của người Việt Nam từ rất lâu đời. Từ một loại thức uống được yêu thích trong đời sống hàng ngày đến một hoạt động tinh tế, uống trà đã phát triển và trở thành một niềm đam mê không chỉ của giới quý tộc, đại gia mà còn được bắt gặp ở hầu hết mọi gia đình bình thường.

Uống Trà Thôi
Theo tạp chí kinh tế
Đánh giá của bạn
1+
2+
3+
4+
5+
6+
7+
8+
9+
10+

Bình Luận

Đăng nhập để bình luận cho bài viết