Hội hoạ truyền thống phương Đông (P3): ‘Cổ ý’ trong hội hoạ Trung Hoa
‘Cổ ý’ không đơn thuần là tác phẩm hội hoạ theo phong cách cổ đại. Vậy việc "phục cổ" trong hội họa có thể chỉ nhìn nhận một cách đơn giản hay không?
Có rất nhiều nghệ thuật gia hiện đại đều đang hướng đến lý tưởng đạt được cái gọi là “cổ ý". Nói đúng hơn, đó là thú vui của họ, là theo đuổi phỏng cổ (bắt chước lối cổ), nghĩ cổ (mô phỏng lối cổ), cổ ý...
Cổ ý là từ được rất nhiều nhà bình luận nghệ thuật hay những người yêu thích thư hoạ dùng trong bình luận tác phẩm, để thể hiện đẳng cấp cao của các tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm được coi là có cổ ý sẽ thể hiện được phong thái tinh thần của cổ nhân, cả trên phương diện tư tưởng, tinh thần, tình cảm cũng như về kĩ pháp, đồng thời cũng bao hàm lòng tôn sùng và sự kính trọng của người đời sau đối với tiền nhân.
Tuy rằng để học tập được kĩ pháp cổ cần bỏ ra nhiều công phu, nhưng bản chất của phương pháp học tập này chỉ là theo đuổi các biểu hiện bề mặt của chúng, về màu sắc, chất liệu, kĩ pháp phục cổ,... không phải cổ ý thực sự. Thậm chí những người yêu thích tranh cổ nhân còn cố tình làm cũ bức tranh đi, mong đạt được cảm giác cổ trong cổ ý. Tuy nhiên dù có làm tốt hơn nữa, cũng không thể đạt được tới trình độ nghệ thuật xưa của cổ nhân, chúng chỉ tạo được cái tư vị, cảm xúc cổ xưa về niên đại đối với người hiện đại mà thôi. Cảm giác niên đại trở thành một loại mỹ học thị giác được đông đảo giới nghệ thuật thừa nhận, nhưng trên thực tế nó còn khiến tác phẩm xa rời cái đích cổ ý hơn nữa. Cũng chính vì thế, đường lối sáng tác này tạo cho các tác gia một loại tâm lý ỷ lại, chỉ dùng các màu sắc trầm và tối để tạo cảm giác cổ mà không chú trọng vào các khía cạnh khác, khiến cho bức tranh bị bộc lộ rất nhiều khuyết điểm, đặc biệt là khi lược bỏ tông màu cũ ấy đi.
Cổ ý không phải là tác phẩm khiến người ta có cảm giác cũ, hay sử dụng đề tài thuộc về cổ đại. Chữ cổ thời xa xưa thường mang nhiều tầng nghĩa, có nội hàm cao thâm hơn, cả về thời gian và không gian, chính vì thế, trải qua niên đại rất lâu dài, những người làm về nghệ thuật vẫn luôn hướng tới việc đạt được nó.
- Theo đuổi ‘Cổ ý’ chân chính
Cổ ý trong hội hoạ không phải cứ cố chấp theo đuổi là có thể đạt được. Sở dĩ coi trọng lối cổ cũng bởi quan niệm “thời kì đầu bao giờ cũng thuần tịnh, đẹp nhất, tốt nhất”, dựa trên cái lý “sinh - lão - bệnh - tử", và đều là nằm trong cái lý to lớn “thành - trụ - hoại - diệt” của vạn vật. Trong suốt chiều dài lịch sử, có thể thấy ban đầu con người khá đơn giản và chất phác, chất lượng cuộc sống rất cao (nhưng không phải xét về giá trị vật chất, mà là tổng hoà của hai thể vật chất và tinh thần). Càng về sau, con người càng tự tư và tư tưởng ngày càng phức tạp, biết tích tồn làm của riêng, quan niệm lợi ích ngày càng chiếm dụng tâm trí, hướng tới thoả mãn dục vọng cá nhân... Niềm tin vào “thiện ác hữu báo" dường như không còn mạnh mẽ như thế nữa, ý niệm về Phật - Đạo - Thần đã trở nên mờ nhạt rồi.
Tại sao lại như thế? Để hiểu rõ được vấn đề này, ta cần đặt mình vào trong bối cảnh văn hoá thời đại lúc bấy giờ để nhìn nhận. Phương thức tìm kiếm tri thức và liễu giải sinh mệnh của cổ nhân rất khác so với con người hiện đại, đặc biệt về khía cạnh tinh thần thì còn có sai lệch rất lớn.
Cổ nhân nhìn nhận rằng vật chất và tinh thần là một thể thống nhất, không có cái gì xuất hiện trước hay sau. Tam tài “Thiên - Địa - Nhân" hợp lại thì thành Đạo. Vạn vật trên thế gian, bao gồm con người, động thực vật, vật chất,... tất cả đều có linh tính, đều tồn tại sinh mệnh. Còn người hiện đại lại phân tách tinh thần và vật chất ra để phân tích, đồng thời phủ nhận những thứ mà mắt người không nhìn thấy được, cho rằng chúng không tồn tại. Càng mang theo tư tưởng thực chứng mạnh, thì tác phẩm sáng tác ra càng bị giới hạn ý cảnh, không thể có được trí huệ và khí phách tại cảnh giới như của cổ nhân. Đặc biệt những người học tập chuyên sâu về văn hoá hội hoạ truyền thống Trung Quốc đều có chung cảm nhận như vậy.
Do phương thức tư duy khác biệt nên biểu hiện ra bên ngoài cũng khác biệt. Ứng với câu: “tâm sinh tướng" - tâm tính ra sao quyết định tướng mạo thế ấy, nội tâm tác giả như thế nào thì quyết định tác phẩm thế ấy. Thời bấy giờ người ta chú trọng tu dưỡng bản thân, nên toàn bộ xã hội đều đặt trong trạng thái rất bình hoà, hướng nội.
Thêm vào đó, cùng với quá trình mở cửa, giao lưu giữa các nền văn hoá, nhiều người nghiên cứu nghệ thuật đã sử dụng khái niệm phương Tây để làm cơ sở phân tích. Thậm chí, các bài kiểm tra đầu vào tại các trường hoặc viện Mỹ thuật đều tuyển sinh viên theo phương thức hội hoạ phương Tây. Hậu quả là các hình thức thể hiện hội hoạ, các quan niệm bị trộn lẫn Đông - Tây, hình thành thói quen sử dụng tư duy hội hoạ phương Tây để phân tích và tìm hiểu thủ pháp thể hiện trong hội hoạ truyền thống, gây nên hiện trạng vô cùng khó khăn cho những người muốn học tập, nghiên cứu hội hoạ truyền thống phương Đông, mà cụ thể ở đây là hội hoạ Trung Hoa cổ xưa. Còn đối với các tác gia, bị tư duy hội hoạ này gây trở ngại, tác phẩm sáng tác ra lẫn tạp những thứ trong quan niệm tư tưởng hội hoạ Tây phương, từ đó phong vị và ý cảnh trong hội hoạ truyền thống trở nên bất thuần, tạo thành khó khăn trong sáng tác hội hoạ truyền thống.
Từ góc độ thâm sâu hơn mà nói, chúng ta có thể đã biết đến hiện trạng xã hội thời xưa, nhưng lại không hiểu rõ được cái tinh tuý trong văn hoá dân tộc của từng thời kì, từng quốc gia, thường chỉ nhận biết bề mặt và chút khái niệm văn hoá truyền thống sơ sài, ít khi chủ động tìm kiếm cốt lõi của nó là gì. Do đó nếu nói rằng ai đó muốn hoằng dương hội hoạ truyền thống mà chỉ chăm chăm chú trọng vào hình thức, mô phỏng các tác phẩm kinh điển cổ đại, cường điệu hoá các thủ pháp kĩ thuật sáng tác, thì mãi chỉ là dựng lên một cái vỏ rỗng mà thôi.
Vạn sự trên thế gian muốn thành thì đều phải xét nhân tâm. Mạnh Tử nói: “Thiên địa gian, nhân vi quý" (Nơi thế gian thì người là quý). Con người quý ở chỗ có phẩm hạnh, có thể thuận theo thiên đạo, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tuẩn thủ đúng quy phạm đạo đức luân thường. Vậy nên nếu soi chiếu vào hội hoạ nói riêng, quan điểm này thể hiện trong việc lập ý của tác phẩm và tinh thần, thái độ sáng tác của tác giả, do đó không thể không coi trọng tâm tính, ngộ tính của người nghệ sĩ.
Cái thâm sâu của cổ ý chính là ở chỗ này. Không phải cứ sử dụng kĩ pháp của cổ nhân thì đã đạt được cổ ý rồi. Mỗi thời đại, mỗi thời kì lịch sử đều có đặc điểm phong cách và chí thú khác nhau về hội hoạ, nhưng vẫn giữ được cái tổng thể, “nhất mạch quán thông" (một mạch thông suốt), phương thức biểu đạt vẫn dùng bút mặc (bút lông và mực tàu), lấy không gian và thời gian hợp nhất, trời và đất đều ở trong tâm.
Chúng ta lại thử tiếp cận cổ ý từ một góc độ khác. Cùng một nội dung hội hoạ và tác giả, nhưng trong các thời kì khác nhau với xuất phát điểm và tâm cảnh không giống nhau sẽ cho ra ý cảnh khác nhau. Tất nhiên đều mang cổ ý, đều đạt cổ ý. Vậy thì nếu kĩ pháp không thuần tịnh, trộn lẫn Đông - Tây, thì khó mà biểu lộ được cổ ý, thậm chí, đến cả “cửa" còn chưa bước vào.
- Thi hoạ được người xưa xem là công cụ để tiến tới Đạo, liên thông được với Thần
Đây là trung tâm tinh thần của văn hoá dân tộc phương Đông, là thứ mà con người coi là chỗ dựa quan trọng bậc nhất trong tinh thần, thông qua truyền thừa văn hoá, tu tập lễ nghi, tuân thủ luân thường mà biểu đạt ra. Từ khi xuất hiện hội hoạ, thì cũng là bắt đầu mối quan hệ giữa hoạ phẩm và nhân phẩm, được liên kết mật thiết thông qua kĩ pháp hoàn thiện và chính thống. Trên tổng thể đều hướng đến theo đuổi cảnh giới mỹ hảo cao thượng, hạ bút thì cần chú trọng tới phong cách nhất quán, phải thể hiện được cái tinh thần điển hình của chế độ thời đó. Tất cả những yêu cầu này, muốn đạt được, thì đều phải đặt sự tu dưỡng nội tâm làm trung tâm để chỉ đạo. Tu dưỡng không đủ, ý cảnh khó đạt siêu phàm thoát tục, trạng thái trong sáng tác khó theo kịp cảnh giới của các tác gia cùng thời, bút mặc khó toát được thần thái và cốt cách tinh mỹ. Trong quá trình nghiên cứu và học hỏi hội hoạ truyền thống, nếu không thực sự đặt tâm vào trong, thì khó có thể lĩnh hội đủ ý và cổ, đề cao không tới được trình độ nhận thức và văn hoá người xưa, muốn từ đó mà thể hội được sự nhất tính của tinh thần và vật chất, sự linh thông của vạn vật, thì có lẽ là chuyện không tưởng. Chỉ có trên cơ sở quan niệm đạo đức tốt đẹp mà luyện tập cổ pháp, mà đối đãi với tác phẩm cổ nhân, như vậy mới có hi vọng kiến lập được tư duy thuần chính, luyện tập được kĩ pháp chính thống, mới có thể hội tụ đủ ý và cổ, xây dựng đủ năng lực phân biệt tốt - xấu chân chính.
Nói đi cũng phải nói lại, vạn sự trên thế gian đều có tính đối lập. Có chính thì có tà, có đẹp thì có xấu, có tốt thì có tệ, có quy phạm thì cũng có phóng túng,... Như vậy, những gì được lưu truyền lại từ cổ xưa tới nay, cũng có nhiều thứ bất chính, không đủ tốt, cùng với những thứ có giá trị cao, lẫn lộn cả vào. Không phải cứ cái gì lâu dài, được truyền thừa, thì đều đáng gìn giữ. Thậm chí có những người trong lịch sử rất nổi danh, nhưng thực tế tác phẩm của họ lại rời xa sự tinh mỹ chính thống. Thế nên nếu không có năng lực phân biệt mạnh mẽ và nghiêm chính (mà những phẩm chất này lại được hun đúc từ kiến thức và cảnh giới tu dưỡng), thì sẽ lạc trong cái hỗn độn ấy mà không tự tìm được lối thoát.
Nhắc tới hội hoạ truyền thống, rất nhiều người sẽ nghĩ ngay tới các tác phẩm thuộc thời kì Đường Tống của Trung Quốc cổ đại. Vì sao con người ngày nay lại thích phong cách thời đó như vậy? Bởi vì đó là thời kì mà văn hoá nhân loại lên tới đỉnh cao, đặc biệt là văn hoá Đại Đường. Khi Đường Thái Tông - Lý Thế Dân trị vì, Trường An là nơi tập trung nhiều nhất các pháp môn tu luyện, bao gồm cả Ki-tô giáo. Lúc này, các tín ngưỡng tôn giáo thuộc Phật giáo chính thống có sức ảnh hưởng vô cùng lớn, dấy lên phong trào tu luyện chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc cổ đại. Phải biết rằng, niềm tin tín ngưỡng chính thống đối với đạo đức của con người đóng một vai trò rất quan trọng, chẳng hạn như quan niệm “thiện ác hữu báo" đã ăn sâu vào tư tưởng của nhân loại cho tới tận ngày nay, chế ước và bảo vệ sự thiện lành trong con người một cách mạnh mẽ.
Với những đặc điểm như vậy, chắc hẳn phẩm chất đạo đức của người thời đó phải rất cao, dân phong thuần phác. Điều này tạo nên một hiện tượng “kinh diễm" chưa từng có trong lịch sử nhân loại, khiến cho toàn bộ diện mạo tinh thần và xã hội lúc bấy giờ đều nhất tề đạt tới sự phồn vinh và đỉnh cao trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, v.v., nhân tài xuất hiện nhiều vô số. Điều này đối ứng với khí tượng quốc thể Đại Đường, là một triều đại huy hoàng và chính tắc. Điều này thể hiện rất rõ ràng ở những tác phẩm hội hoạ mang khẩu khí lớn, nhưng ý tứ thuần chính, chủ yếu lấy Phật Pháp, lấy câu chuyện tôn giáo làm đề tài chính. Mỗi thời đại, nếu có thể tạo lập được niềm tin và lối sống đồng nhất thì sẽ mang tới tác dụng cộng hưởng vô cùng lớn tới bối cảnh văn hoá xã hội. Người dân Đại Đường kính trời tu đức, đó là một cục diện xã hội mang tính sâu rộng. Nhưng thuận theo dòng chảy lịch sử, các trạng thái này không còn được như thuở đầu, văn minh Trung Hoa nói riêng và văn minh nhân loại nói chung xuất hiện biến hoá, từ trạng thái đỉnh cao mà dần trượt dốc.
Đến thời Tống, dòng chủ lưu của hội hoạ không còn trực tiếp thể hiện tín ngưỡng vào Thần Phật nữa, mà lại chọn đối tượng chính là sơn thuỷ, hoa điểu. Lúc này, dòng đề tài sơn thuỷ, hoa điểu đạt tới phát triển vượt bậc, gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Các hoạ gia thời đó còn nhận xét rằng: “Luận về nhân vật, Phật Đạo, nay không bằng xưa. Luận về sơn thuỷ, hoa điểu, xưa không bằng nay”.
Đồng thời, trọng tâm tư tưởng hội hoạ cũng chuyển biến rõ rệt. Nếu nói đề tài thể hiện Thần Phật một cách trực tiếp có thể đối ứng với cảnh giới siêu phàm, thoát tục, phản ánh sự siêu việt trong nhân tính (được coi là Phật tính tồn tại trong con người), thì đề tài sơn thuỷ, hoa điểu được xem là bước thụt lùi của nghệ thuật nhân loại. Dù rằng vào thời kì đầu, có rất nhiều danh hoạ sơn thuỷ thể hiện được cái chất thanh tịnh trong Đạo gia và cái tự tại trong Phật gia, chúng cũng mang Phật tính, nhưng không còn rõ ràng nữa, sau này khi phát triển thêm nữa, thì lại càng trở nên mờ nhạt, mà thay vào đó đều là cái tình, Phật tính đã hoàn toàn được thay thế bằng nhân tính đơn thuần, cảnh giới trong tác phẩm bị hạ thấp xuống một bước dài.
Vật chất và tinh thần, như đã nói ở trên, là một thể thống nhất. Hội hoạ cũng không ngoại lệ. Cảnh giới một khi đã tuột dốc, thì việc lập ý và kĩ xảo trong tác hoạ cũng từng bước nảy sinh biến hoá, đây chính là bối cảnh xuất hiện dòng tranh văn nhân. Trường phái văn nhân hoạ chú trọng tinh thần của văn nhân, sĩ đại phu. Tuy rằng giai tầng này cũng có quan niệm đạo đức nhất định, nhưng đã mang theo dục vọng rồi, so với cảnh giới tuyệt mỹ ẩn chứa trong sự vô tư và từ bi trước đó thì có cách biệt rất xa. Vạn sự thế giới dù có tốt đẹp nhường nào, cũng không thể tuyệt diệu hơn Thánh cảnh nơi Thiên quốc được. Văn nhân hoạ xuất hiện và ngày càng phát triển, cũng đánh dấu cho sự tuột dốc nhanh chóng của các kĩ pháp tả thực chính thống của Trung Quốc. Cảnh giới khác nhau sẽ sản sinh ra các chí thú và ý cảnh khác nhau. Vậy nên muốn bỏ qua Phật tính và nền tảng đạo đức tốt đẹp mà đạt tới cổ ý thực sự, thì hoàn toàn không thể được!
Hội hoạ truyền thống chân chính, là tác phẩm mang đầy đủ tính ca ngợi Thần Phật và sự theo đuổi cảnh giới đạo đức cao thượng. Nghệ thuật có thể câu thông với Thần Phật, chính là ở khía cạnh này, mà tạo nên tính trọng yếu của thi hoạ. Nếu không đạt được mục đích đó, mất đi xuất phát điểm ban đầu (dùng thi hoạ để kết nối với Thần Phật), thì là đã mất đi nội hàm thâm sâu nhất trong đó rồi. Cảnh giới trong hội hoạ phụ thuộc vào cảnh giới của người sáng tác, mà vấn đề này lại phải phụ thuộc vào sự thăng hoa của Phật tính và quá trình loại bỏ những thứ xấu xa ác độc của con người. Muốn một người biến hoá từ căn bản thì chỉ có chân chính cải biến bản thân từ nội tâm, còn tất cả những chuyển biến trên hình thức, không lấy sự thay đổi nội tâm làm tiền đề, thì đều là giả dối và không tồn tại được lâu dài. Những gì con người làm được đều do tư tưởng chỉ đạo, nếu trí huệ không đề cao thì làm gì cũng không tốt, ngược lại, trí huệ cao (đạt được khi cảnh giới cao) thì đột phá được năng lực, có thể sáng tạo ra những thứ vô giá, trường tồn. Thực ra, nhận thức này đã được giới nghệ thuật thừa nhận rộng rãi. Vậy mấu chốt của việc làm sao để các tác gia thăng hoa tự thân, chính là ở chỗ đề cao tâm tính và phẩm hạnh, quan niệm đạo đức.
Tác phẩm tồn tại chính niệm thì vừa đem đến ảnh hưởng chính diện (tích cực) tới nội tâm người xem, mà nếu tác gia đó có thể đặt công phu vào hoàn thiện nội tâm bản thân, thì nó còn mang theo trái tim thuần tịnh và thanh khiết, khiến không chỉ thăng hoa chính mình mà còn giúp thúc đẩy sự thăng hoa của toàn xã hội, là sử dụng hội hoạ để khơi gợi cái tốt, giáo hoá thế nhân.
- Đặt lại đúng mực tầm quan trọng của kĩ pháp trong hội hoạ truyền thống
Kĩ pháp không phải là điều quan trọng nhất trong sáng tác tác phẩm. Có những bức tranh cổ điển, đường nét và lối vẽ không quá rõ ràng, nhưng lại rất dễ khiến người ta mê đắm. Bút pháp mơ hồ thì không thể nói là kĩ pháp tốt được. Vậy vì sao lại có sức ảnh hưởng lớn như thế đây? Đó là tác dụng của tín tức, khí vận bên trong nó, là phản ứng thuộc về bản năng nội tại của sinh mệnh. Chúng vượt qua sự siêu việt về bút pháp, mà ý đồ sáng tác không nằm tại kĩ xảo thể hiện. Cảnh giới tác gia càng cao, tác phẩm càng có thể thấu qua được sự cách biệt về thời gian - không gian mà mang theo sức ảnh hưởng vượt thời đại, giữ được phẩm vị riêng cho đến tận ngày nay.
Nếu một người nghệ sĩ có khả năng kĩ pháp điêu luyện và các hình thức biểu hiện bề mặt, nhưng không đặt công phu vào đề cao cảnh giới tư tưởng, thì cái gọi là “đề cao bút mặc" ấy ngược lại biến thành sợi dây trói buộc họ, khiến họ không cách nào vượt qua quan niệm cố hữu đó. Do đó, tâm cảnh và văn hoá truyền thống của cổ nhân mới là thứ chúng ta nên theo đuổi. Càng nhận thức rõ chúng bao nhiêu, chúng ta càng đạt gần tới cổ ý bấy nhiêu.
Các danh hoạ trong quá khứ như Ngô Đạo Tử, Phạm Khoan, Quách Hi... đều là người tu Đạo. Họ đều đã đạt được tới cảnh giới tu tập nhất định, ngộ tới được một vài Pháp lý trong Đạo, do đó tác phẩm vẽ ra đều thể hiện được phong phạm bản thân, chạm tới cảnh giới Thần truyền mỹ diệu.
Người hiện đại tư tưởng đều đặt trên cơ điểm bài xích Thần, bài trừ các kiến thức, nhận thức, quan niệm về Thần Phật, về vũ trụ, sinh mệnh, vạn sự vạn vật của người xưa. Do đó khó mà có thể ngộ ra được ý nghĩa chân chính của sinh mệnh trong thương khung rộng lớn này, không tài nào thấu hiểu được cái tâm coi trọng Thiên-Địa, núi sông, tôn sùng tạo hoá, tự nhiên, không đạt được cái tinh tuý nhất của cổ nhân, âu cũng là điều dễ hiểu.
Như vậy trọng điểm của cổ ý, thì đứng đầu là tâm thái cảnh giới tư tưởng, sau đó mới đến kĩ pháp, bút pháp. Bởi vì hội hoạ thể hiện sự lĩnh hội về tự nhiên và sinh mệnh, mà bút mặc chỉ là công cụ thể hiện chúng ra mà thôi. Ngộ được cái lí đó một chút, thì sẽ đạt được thành tựu thêm một chút. Đáng tiếc người thời nay đều rất không dụng tâm mà làm gì cả, chỉ coi đó như “trót lưỡi đầu môi", chứ không thực sự quý tiếc nó.
Uống Trà Thôi
Theo ntdvn
Có rất nhiều nghệ thuật gia hiện đại đều đang hướng đến lý tưởng đạt được cái gọi là “cổ ý". Nói đúng hơn, đó là thú vui của họ, là theo đuổi phỏng cổ (bắt chước lối cổ), nghĩ cổ (mô phỏng lối cổ), cổ ý...
Cổ ý là từ được rất nhiều nhà bình luận nghệ thuật hay những người yêu thích thư hoạ dùng trong bình luận tác phẩm, để thể hiện đẳng cấp cao của các tác phẩm nghệ thuật. Một tác phẩm được coi là có cổ ý sẽ thể hiện được phong thái tinh thần của cổ nhân, cả trên phương diện tư tưởng, tinh thần, tình cảm cũng như về kĩ pháp, đồng thời cũng bao hàm lòng tôn sùng và sự kính trọng của người đời sau đối với tiền nhân.
Tuy rằng để học tập được kĩ pháp cổ cần bỏ ra nhiều công phu, nhưng bản chất của phương pháp học tập này chỉ là theo đuổi các biểu hiện bề mặt của chúng, về màu sắc, chất liệu, kĩ pháp phục cổ,... không phải cổ ý thực sự. Thậm chí những người yêu thích tranh cổ nhân còn cố tình làm cũ bức tranh đi, mong đạt được cảm giác cổ trong cổ ý. Tuy nhiên dù có làm tốt hơn nữa, cũng không thể đạt được tới trình độ nghệ thuật xưa của cổ nhân, chúng chỉ tạo được cái tư vị, cảm xúc cổ xưa về niên đại đối với người hiện đại mà thôi. Cảm giác niên đại trở thành một loại mỹ học thị giác được đông đảo giới nghệ thuật thừa nhận, nhưng trên thực tế nó còn khiến tác phẩm xa rời cái đích cổ ý hơn nữa. Cũng chính vì thế, đường lối sáng tác này tạo cho các tác gia một loại tâm lý ỷ lại, chỉ dùng các màu sắc trầm và tối để tạo cảm giác cổ mà không chú trọng vào các khía cạnh khác, khiến cho bức tranh bị bộc lộ rất nhiều khuyết điểm, đặc biệt là khi lược bỏ tông màu cũ ấy đi.
Cổ ý không phải là tác phẩm khiến người ta có cảm giác cũ, hay sử dụng đề tài thuộc về cổ đại. Chữ cổ thời xa xưa thường mang nhiều tầng nghĩa, có nội hàm cao thâm hơn, cả về thời gian và không gian, chính vì thế, trải qua niên đại rất lâu dài, những người làm về nghệ thuật vẫn luôn hướng tới việc đạt được nó.
- Theo đuổi ‘Cổ ý’ chân chính
Cổ ý trong hội hoạ không phải cứ cố chấp theo đuổi là có thể đạt được. Sở dĩ coi trọng lối cổ cũng bởi quan niệm “thời kì đầu bao giờ cũng thuần tịnh, đẹp nhất, tốt nhất”, dựa trên cái lý “sinh - lão - bệnh - tử", và đều là nằm trong cái lý to lớn “thành - trụ - hoại - diệt” của vạn vật. Trong suốt chiều dài lịch sử, có thể thấy ban đầu con người khá đơn giản và chất phác, chất lượng cuộc sống rất cao (nhưng không phải xét về giá trị vật chất, mà là tổng hoà của hai thể vật chất và tinh thần). Càng về sau, con người càng tự tư và tư tưởng ngày càng phức tạp, biết tích tồn làm của riêng, quan niệm lợi ích ngày càng chiếm dụng tâm trí, hướng tới thoả mãn dục vọng cá nhân... Niềm tin vào “thiện ác hữu báo" dường như không còn mạnh mẽ như thế nữa, ý niệm về Phật - Đạo - Thần đã trở nên mờ nhạt rồi.
Tại sao lại như thế? Để hiểu rõ được vấn đề này, ta cần đặt mình vào trong bối cảnh văn hoá thời đại lúc bấy giờ để nhìn nhận. Phương thức tìm kiếm tri thức và liễu giải sinh mệnh của cổ nhân rất khác so với con người hiện đại, đặc biệt về khía cạnh tinh thần thì còn có sai lệch rất lớn.
Cổ nhân nhìn nhận rằng vật chất và tinh thần là một thể thống nhất, không có cái gì xuất hiện trước hay sau. Tam tài “Thiên - Địa - Nhân" hợp lại thì thành Đạo. Vạn vật trên thế gian, bao gồm con người, động thực vật, vật chất,... tất cả đều có linh tính, đều tồn tại sinh mệnh. Còn người hiện đại lại phân tách tinh thần và vật chất ra để phân tích, đồng thời phủ nhận những thứ mà mắt người không nhìn thấy được, cho rằng chúng không tồn tại. Càng mang theo tư tưởng thực chứng mạnh, thì tác phẩm sáng tác ra càng bị giới hạn ý cảnh, không thể có được trí huệ và khí phách tại cảnh giới như của cổ nhân. Đặc biệt những người học tập chuyên sâu về văn hoá hội hoạ truyền thống Trung Quốc đều có chung cảm nhận như vậy.
Do phương thức tư duy khác biệt nên biểu hiện ra bên ngoài cũng khác biệt. Ứng với câu: “tâm sinh tướng" - tâm tính ra sao quyết định tướng mạo thế ấy, nội tâm tác giả như thế nào thì quyết định tác phẩm thế ấy. Thời bấy giờ người ta chú trọng tu dưỡng bản thân, nên toàn bộ xã hội đều đặt trong trạng thái rất bình hoà, hướng nội.
Thêm vào đó, cùng với quá trình mở cửa, giao lưu giữa các nền văn hoá, nhiều người nghiên cứu nghệ thuật đã sử dụng khái niệm phương Tây để làm cơ sở phân tích. Thậm chí, các bài kiểm tra đầu vào tại các trường hoặc viện Mỹ thuật đều tuyển sinh viên theo phương thức hội hoạ phương Tây. Hậu quả là các hình thức thể hiện hội hoạ, các quan niệm bị trộn lẫn Đông - Tây, hình thành thói quen sử dụng tư duy hội hoạ phương Tây để phân tích và tìm hiểu thủ pháp thể hiện trong hội hoạ truyền thống, gây nên hiện trạng vô cùng khó khăn cho những người muốn học tập, nghiên cứu hội hoạ truyền thống phương Đông, mà cụ thể ở đây là hội hoạ Trung Hoa cổ xưa. Còn đối với các tác gia, bị tư duy hội hoạ này gây trở ngại, tác phẩm sáng tác ra lẫn tạp những thứ trong quan niệm tư tưởng hội hoạ Tây phương, từ đó phong vị và ý cảnh trong hội hoạ truyền thống trở nên bất thuần, tạo thành khó khăn trong sáng tác hội hoạ truyền thống.
Từ góc độ thâm sâu hơn mà nói, chúng ta có thể đã biết đến hiện trạng xã hội thời xưa, nhưng lại không hiểu rõ được cái tinh tuý trong văn hoá dân tộc của từng thời kì, từng quốc gia, thường chỉ nhận biết bề mặt và chút khái niệm văn hoá truyền thống sơ sài, ít khi chủ động tìm kiếm cốt lõi của nó là gì. Do đó nếu nói rằng ai đó muốn hoằng dương hội hoạ truyền thống mà chỉ chăm chăm chú trọng vào hình thức, mô phỏng các tác phẩm kinh điển cổ đại, cường điệu hoá các thủ pháp kĩ thuật sáng tác, thì mãi chỉ là dựng lên một cái vỏ rỗng mà thôi.
Vạn sự trên thế gian muốn thành thì đều phải xét nhân tâm. Mạnh Tử nói: “Thiên địa gian, nhân vi quý" (Nơi thế gian thì người là quý). Con người quý ở chỗ có phẩm hạnh, có thể thuận theo thiên đạo, trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng tuẩn thủ đúng quy phạm đạo đức luân thường. Vậy nên nếu soi chiếu vào hội hoạ nói riêng, quan điểm này thể hiện trong việc lập ý của tác phẩm và tinh thần, thái độ sáng tác của tác giả, do đó không thể không coi trọng tâm tính, ngộ tính của người nghệ sĩ.
Cái thâm sâu của cổ ý chính là ở chỗ này. Không phải cứ sử dụng kĩ pháp của cổ nhân thì đã đạt được cổ ý rồi. Mỗi thời đại, mỗi thời kì lịch sử đều có đặc điểm phong cách và chí thú khác nhau về hội hoạ, nhưng vẫn giữ được cái tổng thể, “nhất mạch quán thông" (một mạch thông suốt), phương thức biểu đạt vẫn dùng bút mặc (bút lông và mực tàu), lấy không gian và thời gian hợp nhất, trời và đất đều ở trong tâm.
Chúng ta lại thử tiếp cận cổ ý từ một góc độ khác. Cùng một nội dung hội hoạ và tác giả, nhưng trong các thời kì khác nhau với xuất phát điểm và tâm cảnh không giống nhau sẽ cho ra ý cảnh khác nhau. Tất nhiên đều mang cổ ý, đều đạt cổ ý. Vậy thì nếu kĩ pháp không thuần tịnh, trộn lẫn Đông - Tây, thì khó mà biểu lộ được cổ ý, thậm chí, đến cả “cửa" còn chưa bước vào.
- Thi hoạ được người xưa xem là công cụ để tiến tới Đạo, liên thông được với Thần
Đây là trung tâm tinh thần của văn hoá dân tộc phương Đông, là thứ mà con người coi là chỗ dựa quan trọng bậc nhất trong tinh thần, thông qua truyền thừa văn hoá, tu tập lễ nghi, tuân thủ luân thường mà biểu đạt ra. Từ khi xuất hiện hội hoạ, thì cũng là bắt đầu mối quan hệ giữa hoạ phẩm và nhân phẩm, được liên kết mật thiết thông qua kĩ pháp hoàn thiện và chính thống. Trên tổng thể đều hướng đến theo đuổi cảnh giới mỹ hảo cao thượng, hạ bút thì cần chú trọng tới phong cách nhất quán, phải thể hiện được cái tinh thần điển hình của chế độ thời đó. Tất cả những yêu cầu này, muốn đạt được, thì đều phải đặt sự tu dưỡng nội tâm làm trung tâm để chỉ đạo. Tu dưỡng không đủ, ý cảnh khó đạt siêu phàm thoát tục, trạng thái trong sáng tác khó theo kịp cảnh giới của các tác gia cùng thời, bút mặc khó toát được thần thái và cốt cách tinh mỹ. Trong quá trình nghiên cứu và học hỏi hội hoạ truyền thống, nếu không thực sự đặt tâm vào trong, thì khó có thể lĩnh hội đủ ý và cổ, đề cao không tới được trình độ nhận thức và văn hoá người xưa, muốn từ đó mà thể hội được sự nhất tính của tinh thần và vật chất, sự linh thông của vạn vật, thì có lẽ là chuyện không tưởng. Chỉ có trên cơ sở quan niệm đạo đức tốt đẹp mà luyện tập cổ pháp, mà đối đãi với tác phẩm cổ nhân, như vậy mới có hi vọng kiến lập được tư duy thuần chính, luyện tập được kĩ pháp chính thống, mới có thể hội tụ đủ ý và cổ, xây dựng đủ năng lực phân biệt tốt - xấu chân chính.
Nói đi cũng phải nói lại, vạn sự trên thế gian đều có tính đối lập. Có chính thì có tà, có đẹp thì có xấu, có tốt thì có tệ, có quy phạm thì cũng có phóng túng,... Như vậy, những gì được lưu truyền lại từ cổ xưa tới nay, cũng có nhiều thứ bất chính, không đủ tốt, cùng với những thứ có giá trị cao, lẫn lộn cả vào. Không phải cứ cái gì lâu dài, được truyền thừa, thì đều đáng gìn giữ. Thậm chí có những người trong lịch sử rất nổi danh, nhưng thực tế tác phẩm của họ lại rời xa sự tinh mỹ chính thống. Thế nên nếu không có năng lực phân biệt mạnh mẽ và nghiêm chính (mà những phẩm chất này lại được hun đúc từ kiến thức và cảnh giới tu dưỡng), thì sẽ lạc trong cái hỗn độn ấy mà không tự tìm được lối thoát.
Nhắc tới hội hoạ truyền thống, rất nhiều người sẽ nghĩ ngay tới các tác phẩm thuộc thời kì Đường Tống của Trung Quốc cổ đại. Vì sao con người ngày nay lại thích phong cách thời đó như vậy? Bởi vì đó là thời kì mà văn hoá nhân loại lên tới đỉnh cao, đặc biệt là văn hoá Đại Đường. Khi Đường Thái Tông - Lý Thế Dân trị vì, Trường An là nơi tập trung nhiều nhất các pháp môn tu luyện, bao gồm cả Ki-tô giáo. Lúc này, các tín ngưỡng tôn giáo thuộc Phật giáo chính thống có sức ảnh hưởng vô cùng lớn, dấy lên phong trào tu luyện chưa từng có trong lịch sử Trung Quốc cổ đại. Phải biết rằng, niềm tin tín ngưỡng chính thống đối với đạo đức của con người đóng một vai trò rất quan trọng, chẳng hạn như quan niệm “thiện ác hữu báo" đã ăn sâu vào tư tưởng của nhân loại cho tới tận ngày nay, chế ước và bảo vệ sự thiện lành trong con người một cách mạnh mẽ.
Với những đặc điểm như vậy, chắc hẳn phẩm chất đạo đức của người thời đó phải rất cao, dân phong thuần phác. Điều này tạo nên một hiện tượng “kinh diễm" chưa từng có trong lịch sử nhân loại, khiến cho toàn bộ diện mạo tinh thần và xã hội lúc bấy giờ đều nhất tề đạt tới sự phồn vinh và đỉnh cao trong mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, v.v., nhân tài xuất hiện nhiều vô số. Điều này đối ứng với khí tượng quốc thể Đại Đường, là một triều đại huy hoàng và chính tắc. Điều này thể hiện rất rõ ràng ở những tác phẩm hội hoạ mang khẩu khí lớn, nhưng ý tứ thuần chính, chủ yếu lấy Phật Pháp, lấy câu chuyện tôn giáo làm đề tài chính. Mỗi thời đại, nếu có thể tạo lập được niềm tin và lối sống đồng nhất thì sẽ mang tới tác dụng cộng hưởng vô cùng lớn tới bối cảnh văn hoá xã hội. Người dân Đại Đường kính trời tu đức, đó là một cục diện xã hội mang tính sâu rộng. Nhưng thuận theo dòng chảy lịch sử, các trạng thái này không còn được như thuở đầu, văn minh Trung Hoa nói riêng và văn minh nhân loại nói chung xuất hiện biến hoá, từ trạng thái đỉnh cao mà dần trượt dốc.
Đến thời Tống, dòng chủ lưu của hội hoạ không còn trực tiếp thể hiện tín ngưỡng vào Thần Phật nữa, mà lại chọn đối tượng chính là sơn thuỷ, hoa điểu. Lúc này, dòng đề tài sơn thuỷ, hoa điểu đạt tới phát triển vượt bậc, gặt hái được nhiều thành tựu to lớn. Các hoạ gia thời đó còn nhận xét rằng: “Luận về nhân vật, Phật Đạo, nay không bằng xưa. Luận về sơn thuỷ, hoa điểu, xưa không bằng nay”.
Đồng thời, trọng tâm tư tưởng hội hoạ cũng chuyển biến rõ rệt. Nếu nói đề tài thể hiện Thần Phật một cách trực tiếp có thể đối ứng với cảnh giới siêu phàm, thoát tục, phản ánh sự siêu việt trong nhân tính (được coi là Phật tính tồn tại trong con người), thì đề tài sơn thuỷ, hoa điểu được xem là bước thụt lùi của nghệ thuật nhân loại. Dù rằng vào thời kì đầu, có rất nhiều danh hoạ sơn thuỷ thể hiện được cái chất thanh tịnh trong Đạo gia và cái tự tại trong Phật gia, chúng cũng mang Phật tính, nhưng không còn rõ ràng nữa, sau này khi phát triển thêm nữa, thì lại càng trở nên mờ nhạt, mà thay vào đó đều là cái tình, Phật tính đã hoàn toàn được thay thế bằng nhân tính đơn thuần, cảnh giới trong tác phẩm bị hạ thấp xuống một bước dài.
Vật chất và tinh thần, như đã nói ở trên, là một thể thống nhất. Hội hoạ cũng không ngoại lệ. Cảnh giới một khi đã tuột dốc, thì việc lập ý và kĩ xảo trong tác hoạ cũng từng bước nảy sinh biến hoá, đây chính là bối cảnh xuất hiện dòng tranh văn nhân. Trường phái văn nhân hoạ chú trọng tinh thần của văn nhân, sĩ đại phu. Tuy rằng giai tầng này cũng có quan niệm đạo đức nhất định, nhưng đã mang theo dục vọng rồi, so với cảnh giới tuyệt mỹ ẩn chứa trong sự vô tư và từ bi trước đó thì có cách biệt rất xa. Vạn sự thế giới dù có tốt đẹp nhường nào, cũng không thể tuyệt diệu hơn Thánh cảnh nơi Thiên quốc được. Văn nhân hoạ xuất hiện và ngày càng phát triển, cũng đánh dấu cho sự tuột dốc nhanh chóng của các kĩ pháp tả thực chính thống của Trung Quốc. Cảnh giới khác nhau sẽ sản sinh ra các chí thú và ý cảnh khác nhau. Vậy nên muốn bỏ qua Phật tính và nền tảng đạo đức tốt đẹp mà đạt tới cổ ý thực sự, thì hoàn toàn không thể được!
Hội hoạ truyền thống chân chính, là tác phẩm mang đầy đủ tính ca ngợi Thần Phật và sự theo đuổi cảnh giới đạo đức cao thượng. Nghệ thuật có thể câu thông với Thần Phật, chính là ở khía cạnh này, mà tạo nên tính trọng yếu của thi hoạ. Nếu không đạt được mục đích đó, mất đi xuất phát điểm ban đầu (dùng thi hoạ để kết nối với Thần Phật), thì là đã mất đi nội hàm thâm sâu nhất trong đó rồi. Cảnh giới trong hội hoạ phụ thuộc vào cảnh giới của người sáng tác, mà vấn đề này lại phải phụ thuộc vào sự thăng hoa của Phật tính và quá trình loại bỏ những thứ xấu xa ác độc của con người. Muốn một người biến hoá từ căn bản thì chỉ có chân chính cải biến bản thân từ nội tâm, còn tất cả những chuyển biến trên hình thức, không lấy sự thay đổi nội tâm làm tiền đề, thì đều là giả dối và không tồn tại được lâu dài. Những gì con người làm được đều do tư tưởng chỉ đạo, nếu trí huệ không đề cao thì làm gì cũng không tốt, ngược lại, trí huệ cao (đạt được khi cảnh giới cao) thì đột phá được năng lực, có thể sáng tạo ra những thứ vô giá, trường tồn. Thực ra, nhận thức này đã được giới nghệ thuật thừa nhận rộng rãi. Vậy mấu chốt của việc làm sao để các tác gia thăng hoa tự thân, chính là ở chỗ đề cao tâm tính và phẩm hạnh, quan niệm đạo đức.
Tác phẩm tồn tại chính niệm thì vừa đem đến ảnh hưởng chính diện (tích cực) tới nội tâm người xem, mà nếu tác gia đó có thể đặt công phu vào hoàn thiện nội tâm bản thân, thì nó còn mang theo trái tim thuần tịnh và thanh khiết, khiến không chỉ thăng hoa chính mình mà còn giúp thúc đẩy sự thăng hoa của toàn xã hội, là sử dụng hội hoạ để khơi gợi cái tốt, giáo hoá thế nhân.
- Đặt lại đúng mực tầm quan trọng của kĩ pháp trong hội hoạ truyền thống
Kĩ pháp không phải là điều quan trọng nhất trong sáng tác tác phẩm. Có những bức tranh cổ điển, đường nét và lối vẽ không quá rõ ràng, nhưng lại rất dễ khiến người ta mê đắm. Bút pháp mơ hồ thì không thể nói là kĩ pháp tốt được. Vậy vì sao lại có sức ảnh hưởng lớn như thế đây? Đó là tác dụng của tín tức, khí vận bên trong nó, là phản ứng thuộc về bản năng nội tại của sinh mệnh. Chúng vượt qua sự siêu việt về bút pháp, mà ý đồ sáng tác không nằm tại kĩ xảo thể hiện. Cảnh giới tác gia càng cao, tác phẩm càng có thể thấu qua được sự cách biệt về thời gian - không gian mà mang theo sức ảnh hưởng vượt thời đại, giữ được phẩm vị riêng cho đến tận ngày nay.
Nếu một người nghệ sĩ có khả năng kĩ pháp điêu luyện và các hình thức biểu hiện bề mặt, nhưng không đặt công phu vào đề cao cảnh giới tư tưởng, thì cái gọi là “đề cao bút mặc" ấy ngược lại biến thành sợi dây trói buộc họ, khiến họ không cách nào vượt qua quan niệm cố hữu đó. Do đó, tâm cảnh và văn hoá truyền thống của cổ nhân mới là thứ chúng ta nên theo đuổi. Càng nhận thức rõ chúng bao nhiêu, chúng ta càng đạt gần tới cổ ý bấy nhiêu.
Các danh hoạ trong quá khứ như Ngô Đạo Tử, Phạm Khoan, Quách Hi... đều là người tu Đạo. Họ đều đã đạt được tới cảnh giới tu tập nhất định, ngộ tới được một vài Pháp lý trong Đạo, do đó tác phẩm vẽ ra đều thể hiện được phong phạm bản thân, chạm tới cảnh giới Thần truyền mỹ diệu.
Người hiện đại tư tưởng đều đặt trên cơ điểm bài xích Thần, bài trừ các kiến thức, nhận thức, quan niệm về Thần Phật, về vũ trụ, sinh mệnh, vạn sự vạn vật của người xưa. Do đó khó mà có thể ngộ ra được ý nghĩa chân chính của sinh mệnh trong thương khung rộng lớn này, không tài nào thấu hiểu được cái tâm coi trọng Thiên-Địa, núi sông, tôn sùng tạo hoá, tự nhiên, không đạt được cái tinh tuý nhất của cổ nhân, âu cũng là điều dễ hiểu.
Như vậy trọng điểm của cổ ý, thì đứng đầu là tâm thái cảnh giới tư tưởng, sau đó mới đến kĩ pháp, bút pháp. Bởi vì hội hoạ thể hiện sự lĩnh hội về tự nhiên và sinh mệnh, mà bút mặc chỉ là công cụ thể hiện chúng ra mà thôi. Ngộ được cái lí đó một chút, thì sẽ đạt được thành tựu thêm một chút. Đáng tiếc người thời nay đều rất không dụng tâm mà làm gì cả, chỉ coi đó như “trót lưỡi đầu môi", chứ không thực sự quý tiếc nó.
Uống Trà Thôi
Theo ntdvn